Nguồn: Bạn Văn, Một Thuở – nhà xuất bản Văn Mới, Hoa Kỳ 2005
Hãy tưởng tượng một cuộc họp mặt giữa bạn bè cũ tại một căn phòng khách ấm cúng vào cuối tuần. Bên kia khung cửa kính, có thể tuyết đang rơi trắng xóa, hoặc tiếng máy xe từ một xa lộ gần tiếp tục gầm rú. Có thể là những rừng phong đang thay lá hay những bức tường xám đã chắn mất lối nhìn. Dù bên ngoài thời tiết ra sao, cuộc sống dồn dập hối hả hay êm ả thanh bình, láng giềng là một gia đình da trắng sống lạnh nhạt hờ hững hay một gia đình Mễ sống buông tuồng phóng túng, căn phòng khách đó vẫn là một thế giới riêng biệt. Giữa cuộc sống lưu lạc từng giờ chạy theo cơm áo và tốc lực, ở bất cứ đâu người Việt cũng cố tạo ra một thế giới riêng, một góc khuất tịch để sống cho mình, sống theo lối Việt Nam.
Hãy tưởng tượng buổi tối hôm ấy sở dĩ bạn bè gần xa tụ họp đông đủ hơn thường lệ, vì có một người bạn chung vừa từ trại tị nạn mới qua. Ai cũng nao nức muốn gặp lại người bạn cũ. Đã đành qua điện thoại, họ có kể cho nhau nghe đại khái những gì đã xảy ra suốt mấy năm xa cách, kẻ ở lại oằn vai chịu đựng cuộc đổi đời tàn khốc, kẻ ra đi lơ láo bơ vơ nơi xứ lạ, nhưng vài phút ngắn ngủi trao đổi qua điện thoại sao cho đủ. Cái con bé ngày xưa ưa chọc quê mấy ông thầy trẻ mới ra đường nay còn giữ được cái tính tinh nghịch hay không? Mái tóc thề ngày xưa từng là suối thơ của lũ con trai xóm nhà lá nay nghe nói đã điểm sương, nhưng sương mấy phần? Có thật cái ông quan đầu tỉnh hồi trước nay đạp cyclo ở chợ Tân Định hay không? Rồi con Liên, con Hoa, con Lý, con Huệ lớp đệ ngũ hồi đó bây giờ đứa nào đã thành bà ngoại, đứa nào đã tái giá, đứa nào đã “tre khóc măng”, đứa nào đã ra đi hay sống sót…
Bạn đọc chắc đã từng dự những buổi gặp gỡ ấm cúng, hân hoan và đầy ngậm ngùi như vậy. Và chắc bạn đọc cũng đã được những người bạn cũ mới đặt chân lên đất lạ tỉ tê kể cho nghe những gì bạn trải qua trong bao nhiêu năm ở lại.
Có nhiều cách kể.
Có người mới tới, tuy khuôn mặt vẫn còn nguyên nét khắc khổ mệt môi, nhưng đôi mắt sáng rực tin tưởng và lạc quan. Họ không than van kể lể, họ thuyết trình. Họ là những người từ chiến trường về hậu phương. Họ hãnh diện về những kinh nghiệm xương máu đã có, và cuộc ra đi của họ nặng trĩu những sứ mệnh. Họ bước tới phòng khách này với rất nhiều lời nhắn nhủ, gửi gắm, với rất nhiều mong đợi của bạn bè bên nhà. Người nghe được truyền cho niềm tin, sau đó là mặc cảm xốn xang. Cuối buổi gặp gỡ, mọi người ra về, nét mặt trầm ngâm.
Có ngưới mới tới chuẩn bị sưu tập tất cả đau đớn bất hạnh của kẻ thân người sơ để làm quà cho các bạn cũ may mắn đi trước và hiện sống ổn định. Những tan vỡ gia đình, những đói khát sỉ nhục. Những tù tội giam cầm. Những lọc lừa phản trắc. Hải tặc Thái. Đói phải ăn thịt người. Chết mòn ở trại tị nạn. Đâm chém nhau vì tuyệt vọng cùng đường. Bao nhiêu đau đớn của trần gian đầy đủ trong lời kể. Trước nỗi đau lớn lao ấy, người nghe cảm thấy áy náy. Với tay nhón lấy một trái nho mọng trong lúc đồng bào mình phải ăn thịt người để sống ư? Đưa ly rượu ngon lên môi uống trong khi có người phải uống nước tiểu cầm hơi ư? Không ai dám chạm đũa lên bàn tiệc ê hề rượu thịt. Không ai dám tỏ ánh vui. Và mọi người lại ra về với nét mặt trầm ngâm.
Nguyễn thị Hoàng Bắc cũng là một người vượt biển tị nạn mới tới. Nhưng tôi tin rằng những bạn bè cũ đến nghe chị kể chuyện quê nhà không bao giờ bị cảm giác xốn xang đè nặng lên tâm hồn. Tôi chưa được hân hạnh trực tiếp nghe chị kể chuyện, nhưng qua các truyện ngắn Nguyễn thị Hoàng Bắc đăng trên các báo, tôi nghĩ lối kể chuyện quê nhà của chị trong các buổi gặp gỡ thân tình ấy hết sức linh hoạt, tự nhiên. Bạn bè của chị biết hết được cả cảnh khóc cười, vinh nhục, biết hết vừa những cay đắng ê chề lẫn những niềm Vui hiếm hoi, những thảm cảnh chen lẫn những hoạt cảnh quê hương.
Trong các buổi họp mặt ấy, tôi nghĩ Nguyễn thị Hoàng Bắc không “kể chuyện”, mà “nói chuyện”. Như một người đang bị các bạn cũ xúm lại hỏi tin quê nhà, chị không thể ề à chậm rãi kể chuyện từ đầu đến đuôi, có lớp lang thứ tự. Truyện của chị không cần bố cục, không thèm sắp xếp, chị cũng không lo lắng dụng công xếp đặt để trở thành một “sứ điệp”. Từ chuyện nọ nhảy sang chuyện kia, nhảy cái ào, không cần báo trước. Người nghe thông cảm, miệng nhóp nhép nhai quả nho chờ lại tới phiên mình được hỏi. Cả người kể lẫn người nghe đều thoải mái.
Mười bảy truyện ngắn trong tập truyện đầu tay này giống như những bản ghi âm những buổi “nói chuyện quê nhà”, có vẻ khơi khơi nhưng hết sức chân thực và sâu sắc. Tuy không cố gắng hệ thống hóa những kinh nghiệm sống của mình, nhưng chị đã cho bạn đọc biết rõ những gì đã xảy ra ở cả ba nơi: quê nhà, trại tị nạn và những ngày đầu trên quê hương mới.
Con đường khổ ải Nguyễn thị Hoàng Bắc đi qua, trước đó nhiều người cũng đã đi qua. Con đường đầy chông gai làm chất liệu phong phú cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, người sáng tạo không cần phải khổ công tưởng tượng, chỉ cần chọn lựa giữa vực nước mắt ấy giọt nước mắt nào phản ảnh được cuộc sống nhiều nhất, như lời một câu ca dao đẹp của chúng ta:
Cuộc đời nước mắt soi gương
Càng đau đớn lắm càng thương nhớ nhiều.
Nguyễn thị Hoàng Bắc không chọn những cái lớn lao, chị chọn những cái nhỏ và gần gũi, những hạt bụi trong cơn bão tố. Và như nhan đề chung của tập truyện này, hạt bụi nào cũng long lanh, biến ảo, mới nhìn tưởng là đơn giản tầm thường nhưng nói được nhiều điều.
Chuyện tù cải tạo thì nhiều tác giả đã viết hàng pho dày cộm, làm thành những cuốn bạch thư tố cáo chế độ Cộng sản. Nguyễn thị Hoàng Bắc cũng có thân nhân đi tù cải tạo, chính chị cũng nhiều lần bị tù tội. Nhưng chị chỉ chọn những chi tiết tiêu biểu để viết ra. Chẳng hạn cảnh một trại cải tạo dưới mắt người vợ đi thăm nuôi chồng:
“Nói chuyện nhà cửa bông lông một lát với nhà tôi rồi trao xách đồ, tôi buồn rầu nhìn theo dáng chồng tiều tụy, cây đòn gánh lủng lẳng những giỏ, xách, bộ đồ nhà binh rách vá miếng nhỏ miếng to.
Một số tù đi làm về, lon hũ túm tụm trên vai, rau giang rau má nguyên cả dây dài quấn quanh người như những cây tầm gửi. Họ đi im lặng, lang thang qua những bờ ruộng ớt trỗ đầy bông, khoai mì thẳng tắp, mía bạt ngăn. Những đôi mắt đờ đẫn, mất thần. Tôi đã nghe chuyện có người bị cán bộ quản giáo đạp xuống đường vì lỡ hái một quả ớt. Họ đi khuất sau dãy nhà sơn trắng phía xa, có chồng tôi, chồng Ngọc và bao nhiêu người trai trẻ nữa, xa vắng lặng im như chẳng còn có ở trên đời.”
(Mặt trận dài)
Hoặc trại tù dưới mắt của chính người tù:
“Nhưng má tôi, rồi tôi cũng phải tìm đường mà đi. Lội ra “bãi” nằm ụ đó cả đêm chờ đèn hiệu chớp ba cái là ào xuống, đèn đâu chẳng thấy rủi sao du kích đi tuần, thế là cả đám “nằm ấp”. Lần nữa, mới hớt ha hớt hãi chui từ hầm mộ trong bãi tha ma ra, quỉ Dracula công an chụp liền. Thế là xong. Nhưng rồi lại lần nữa, lần nữa. Ở tù riết, công an trại cải tạo kiềng mặt tôi:
– Lại mày nữa à?
– Vâng. Cháu đây bác ạ.
– Thôi, kỳ này nom mày hom hem quá chả vào tổ văn nghệ được. Chịu khó đi cấy đi con.
Rồi đỉa, rồi muỗi mòng tha hồ nhè hai bắp chân ốm của tôi mà làm thịt. Nhưng chưa ghê bằng cái trò đi gánh phân người bón ruộng. Tôi thấy mấy anh bên nhà B2 vừa đổ thùng phân người xuống ruộng vừa lấy tay bóp bóp, miệng thì nhai cục đường cho đỡ gớm. Lần đầu thấy vậy, tôi như bị trúng gió, gục xuống ruộng mà nôn. Qua lần hai lần ba, nắng rực trời, đói khát mờ con mắt, nghe mùi phân người tươi chỉ thum thủm nặng nặng mà thôi. Ở tù ra, là tôi lại xây mộng”
(Trên triền dốc)
Cứ như vậy, Nguyễn thị Hoàng Bắc kể chuyện nhà với cái giọng tinh nghịch, thông minh, linh hoạt, người nghe chị kể chuyện tuy “khi vò chín khúc khi chau đôi mày” như Kim Trọng nghe Thúy Kiều gảy khúc đoạn trường, nhưng cũng có lúc phải phá lên cười vì những câu pha trò dí dỏm của chị, vì lối dùng chữ bạo dạn và trực tiếp không cần quanh co của chị. Những vấn đề lớn trùm trời đất như cảnh Nam Bắc gặp nhau sau tháng Tư 1975 (lớn vì là một cuộc va chạm nẩy lửa giữa hai nền văn minh, hai ý thức hệ, hai phe của một cuộc chiến dai dẳng) nhưng qua lời viết của Nguyễn thị Hoàng Bắc, cái lớn lao ấy trở nên cụ thể, gần gũi, ở ngay trong tầm tay mọi người. Tôi nghĩ hoạt cảnh sau đây là cảnh tiêu biểu cho cuộc đoàn tụ cay đắng cười ra nước mắt giữa hai miền Nam Bắc:
“Anh chàng nói tiếng Bắc giọng Thanh Hóa nghe cũng dễ thương:
– Cha tôi đi bộ đội kháng chiến 1, kháng chiến 2, giờ là thương binh phục viên. Mẹ là y sĩ. Tôi là lớn nhất, hai em còn đi học.
Và hỏi tôi:
– Cô Thúy công tác ở đâu?
Tôi cười dài:
– Dạ công tác nhà bếp.
– Cô là chị nuôi à? Ở cơ quan nào thế?
Hỡi ôi! Cái mặt tôi vầy mà thèm làm chị nuôi cho bộ đội à! Thôi, cho cái anh sĩ quan Việt cộng này gài số “de” đi.
Thế mà sau lần gặp đó, hắn lại mò đến nhà tôi và chỉ vào đống rác:
– Ba sạch, bốn diệt, sao Thùy không động viên hàng xóm cũng công tác với mình để dẹp đống rác?
Tôi bực quá phát cáu:
– Anh động viên giùm tôi đi.
Vậy mà Tiến (tên hắn) làm thật. Tôi đứng trong nhà cười khúc khích khi thấy Tiến đấu khẩu với mụ Chín Héo. Họ gọi nhau bằng đồng chí một lát, thì đồng chí Chín giận dữ đẩy đồng chí Tiến ra, đóng cửa đánh sầm một cái. Tiến dạy đời:
– Tại Thùy không biết đấu tranh. Một lần không được ta phải tranh thủ thuyết phục, nói mãi thì cũng được thôi.
Về sau mỗi lần Tiến đến chơi, thấy đống rác tôi đùa:
– Nhờ có đống rác mà tôi có cảm tình với anh.
Mặt Tiến đỏ như gấc…”
(Trên triền dốc).
Qua truyện ngắn của Nguyễn thị Hoàng Bắc, những người ở phía “bên kia” hiện ra cụ thể, từ mụ Chín Héo cậy quyền thế chiếm nhà của dân cho đến ông cha tập kết đã cưới vợ Bắc lâu lâu còn về miền Nam tìm cách vòi tiền của người vợ cũ, từ những chú bộ đội ngây thơ ăn nói theo công thức cho đến những cán bộ “ba mươi” hách dịch tham lam. Còn “bên này” là những người đàn bà cô đơn lạc loài trên bước đường tị nạn, một bà cụ già xa lạ ngay trong chính gia đình đứa con ruột thịt của mình, một đôi nhân tình sau những ngày sóng xô bèo giạt đã gặp lại… Chỉ cần vài nét, chị đã phác họa được cả một thế giới sống động và phức tạp, dù đó là cảnh đời ở quê nhà, ở trại tị nạn, hay ở quê hương thứ hai.
Những “hạt bụi phất phơ” của Nguyễn thị Hoàng Bắc mới nhìn tưởng như những lời kể khơi khơi tùy hứng của một người tinh nghịch, nhưng nhìn kỷ, từ những hạt bụi ấy đều có những điều biến ảo, giống như những “giọt nước mắt soi gương” phản chiếu cả một cuộc biển dâu của dân tộc.
Cho nên tôi nghĩ Nguyễn thị Hoàng Bắc và nhà xuất bản Văn Nghệ đã có lý khi chọn nhan đề chung cho tập truyện này là “Long Lanh Hạt Bụi”.
Nguyễn Mộng Giác
(Bài Tựa cuốn Long Lanh Hạt Bụi, Văn Nghệ xuất bản năm 1988)
