Trong một bài tạp ghi viết cách đây khá lâu, tôi có ghi nhận mối duyên nợ thắm thiết giữa nhà thơ và nhà chùa. Hầu hết các nhà sư đều thích đọc thơ, làm thơ, in thơ. Hầu hết các nhà thơ, ngược lại, đều có quan hệ thắm thiết với nhà chùa, nhất là vào những lúc nhà thơ gặp cảnh hoạn nạn. Cũng lạ. Tôn giáo nào cũng tuyên xưng lòng thương yêu. Chùa chiền, giáo đường, thánh thất… luôn luôn mở cửa chào đón những kẻ khốn cùng, những người bất hạnh. Một nhà thơ đau khổ cũng tuyệt vọng, xót xa như bất cứ ai, nhiều khi người biết làm thơ ít đau khổ hơn những người không biết làm thơ, vì nhà thơ có thể chia bớt nỗi đau cho chữ nghĩa. Ðau mà khóc được thì mau vơi hơn nỗi đau thầm. Nhưng khi tìm một nơi an trú, hình như các nhà thơ lại có những cách lựa chọn khác hơn người thường. Lý do? Nói như ngôn ngữ nhà Phật, các nhà thơ thường có cái ngã lớn hơn người thường. Dù trong cảnh hoạn nạn, các nhà thơ không thích những đôi mắt nhìn xuống thương hại, không thích bị đối xử như một đứa trẻ mồ côi trong viện dục anh. Thử tưởng tượng một nhà thơ như Alfred de Vigny (tác giả bài Cái chết của con chó sói) hay Tản Ðà (người tự nhận là ông tiên bị giáng xuống trần) mà phải chịu đứng yên cho các bà mệnh phụ ngắm nghía hình hài và xuýt xoa thương xót, chúng ta sẽ thấy hình ảnh đó nghịch lý biết chừng nào. Thi sĩ có thể nghèo đến độ nhìn hoa cúc vàng mà gan ruột cồn cào vì đói như Nguyễn Du, có thể chết dấm dúi trong một chiếc thuyền rách như Ðỗ Phủ. Nhưng phải chịu thu vai bó gối cho thiên hạ nhìn xuống thương hại, thì không. Nhất định không. Thi sĩ thích tìm nơi an trú nào ở đó, anh ta vẫn có thể tiếp tục làm thi sĩ, ở đó không có những ánh mắt thương hại, ở đó khỏi phải ngửng đầu lên mà cầu khấn. Nhìn quanh, hình như chỉ có chùa chiền là nơi an trú thích hợp cho các nhà thơ.
Kể cũng đúng thôi. Vừa qua khỏi cổng chùa, thi sĩ đã gặp một thi sĩ thực thụ (hay một chuẩn thi sĩ) là nhà sư trụ trì. Hai bên đều thầm nghĩ thơ mình hay nhất, nhưng cách định giá chủ quan ấy không làm cho mối quan hệ khó khăn nặng nề hơn, vì đã có một lối phân định ranh giới hợp lý: tôi thơ đời, thầy thơ đạo. Trong thơ tôi nỗi thống khổ lên cao đến hết cung bậc. Trong thơ thầy, nỗi đau chỉ là gió thoảng. Lối xác định rạch ròi ngay từ ban đầu giữa hai thi sĩ không phải là ngẫu nhiên. Nó bắt nguồn từ Phật pháp. Khi Ðức Phật nhận mình chỉ là người dẫn đường chứ không phải là đấng thiêng liêng cứu thế, và mỗi người phải tự đốt đuốc soi tìm đường đi, thì nhà sư trụ trì không thể đứng trên cao nhìn xuống cái thế gian nheo nhóc này mà thương xót được. Mỗi người đều tự tạo nghiệp cho mình, và chỉ có mình chứ không có ai khác có thể cứu mình. Ðạo Phật cũng không đòi hỏi mọi người phải chấp nhận những tín điều mình đưa ra như những chân lý tuyệt đối bất khả tư nghị. Chính Ðức Phật cũng thường xuyên cảnh giác Phật tử, khuyên họ không nên tin theo những điều chính mình cũng chưa hiểu rõ, chưa thông suốt, kể cả những điều đã được người xưa truyền lại, ngay cả những điều đã được ghi trong kinh sách. Tinh thần vô chấp của Ðạo Phật rất thích hợp với khát vọng suy nghĩ và sáng tạo tự do của văn nghệ sĩ. Nhà thơ vào chùa thoải mái, không bị ai chận cửa thu thẻ căn cước, khỏi phải rón rén bước đi vì kinh sợ đấng thần linh, lỡ nói năng ba hoa quá lời cũng không sợ tội phạm thánh vì nhà chùa không có thánh, và nếu không chịu được cuộc sống tu hành kham khổ phải rời chùa, cũng không bị ai chê trách. Ðúng là chỗ an trú lý tưởng của các nhà thơ, khi họ cần một chỗ trú. Vì thế Phạm Công Thiện là khách quí của khắp các chùa lớn chùa nhỏ ở Việt Nam và ở hải ngoại. Nguyễn tất Nhiên lái xe đến chùa trước khi quyết định từ giã cõi đời. Và Bùi Giáng trong suốt cuộc chơi lớn với đời vẫn xem chùa chiền là chỗ dừng nghỉ thoải mái.
Nói như thế, không có nghĩa là khi khổ đau các nhà thơ Việt Nam chỉ tìm tới một địa chỉ: nhà chùa. Nói như thế không công bằng, khi ai trong chúng ta cũng biết bài thơ tuyệt tác Eve Maria của Hàn Mặc Tử trong tập Xuân Như Ý. Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết:
“Ðây là mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý muốn của thi nhân, đầy rẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là ánh thơ. Với Hàn Mặc Tử, thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng những để ca tụng Thượng đế mà cũng để nối người ta với Thượng đế, để ban phước cho cả và thiên hạ”.
Rồi Hoài Thanh đưa ra nhận xét chung:
“Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo không có gì giống như vậy“.
Hoài Thanh nói đúng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ đầu tiên mang không khí Phúc âm vào thi ca Việt Nam. Và cũng là lần đầu người đọc chứng kiến một nhà thơ say sưa dâng trọn đời mình cho Ðức Tin:
Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Lạy Bà là Ðấng tinh truyền thanh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế…
Giả dụ Hàn Mặc Tử sống cùng một thời một chỗ với một thi sĩ lớn khác là Bùi Giáng. Trong khi Hàn Mặc Tử dọn mình tinh sạch để “dâng lời cảm tạ phò nguy” lên Ðức Mẹ trong khung cảnh trang nghiêm thiêng liêng của giáo đường, thì Bùi Giáng vung tay huơ chân đùa cợt với Thượng Ðế:
Hôm nay ông Thượng Ðế đề huề
Ngày mai cô độc mỏi mê linh hồn
Hôm nay Thượng Ðế ăn cơm
Ngày mai ông ăn cá cơn cơn cuộc tình
Hôm nay ông ăn nói đinh ninh
Ðàng hoàng rất mực tặng Na Quỳnh bài thơ…
Nhất định không ai cho Bùi Giáng được phạm thánh ở chỗ Hàn Mặc Tử đang cầu nguyện, dù ông được mọi người cho rằng ông điên, khỏi phải chịu trách nhiệm về những điều nói ra. Gọi Thượng Ðế bằng “ông” là một tội lỗi không thể tha thứ được, chưa nói tới vụ bắt Thượng Ðế “ăn cơm, ăn cá, cơn cơn cuộc tình” và sợ cô độc, y như Bùi Giáng vậy. Không ai có thể cao hơn Ðấng Sáng Thế, kể cả các thi sĩ ngông cuồng tự xem mình là trích tiên như Lý Bạch, Tản Ðà.
Không có thứ tài ba nào có thể ở ngoài sự xếp đặt của Ðấng Sáng Thế, cho nên kiểu tự phong ngang xương mà đáng yêu của Bùi Giáng không có chỗ trong giáo đường:
Làm thơ hay nhất trần đời
Cái điên cũng đến tuyệt vời cuồng điên
Cái khùng cũng vậy tuy nhiên
Cái tài hoa cũng muộn phiền lắm thay.
Bùi Giáng chỉ có thể đến nương náu nơi cửa chùa, vì Ðức Phật chẳng những không cấm đoán mà còn khuyến khích cái quyền ngờ vực chân lý có sẵn. Thơ Bùi Giáng bay lượn giữa thực và ảo, nghiêm chỉnh và bông đùa, phóng túng và cổ điển nhờ ông tận hưởng được cái quyền tự do tìm kiếm chân lý và chọn kiểu sống theo ý mình. Ngược lại, thơ Hàn Mặc Tử có giá trị trường cửu nhờ Ðức Tin nhiệt thành của ông. Hai con đường vào thơ cũng là hai cách chọn chỗ an trú. Hai cách chọn khởi điểm để sống trọn đời mình: biết ngờ, và biết tin.
Nguyễn Mộng Giác
( trích trong Bạn văn, một thuở… )
