Vài tháng trước, hay tin bệnh anh trở nặng, tôi điện thoại hỏi thăm, nghe chị nói anh đang ở bệnh viện và anh đang niệm Phật, tôi ngờ rằng anh sắp đi. Nhưng tôi vẫn mơ hồ ước ao còn được gặp lại anh vào cuối hè năm nay…
Không kịp rồi anh Giác ơi! Tin bạn bè tới tấp cho hay ngày 2 tháng 7…
Ngọn cỏ khô đã rời thung lũng, bay đi. Đem về cho tôi một khoảng trời xưa cũ đầy ắp những kỷ niệm êm đềm.
Từ trái: Lữ Quỳnh, Nguyễn Mộng Giác, Trúc Chi, Võ Phiến
Giở lại chồng thư tìm lại bóng hình xưa, tâm tình ngày cũ, mới giật mình nhẩm tính: hơn 25 năm rồi kể từ ngày tôi làm (một trong những) cánh nhạn đưa tin anh Giác từ Mỹ về cho chị Chi. Ở số 62/22 Dương Công Trừng, Thị Nghè, phường 19 quận Bình Thạnh Sài Gòn. Anh vẽ đường chỉ cách đi trong thư, dặn dò, ngắn, gọn. Anh mực thước, nhỏ nhẹ, ngắn gọn đến khô queo. Chị vui vẻ, dàn trải, hài hước và cũng mau nước mắt, ít ra là vào thời đó. Khiến tôi cứ sụt sùi hối hận đã đem hy vọng huyễn đến cho chị, vì phải đến bốn hay năm năm sau chị mới qua đoàn tụ với anh. Mà tôi thì chẳng hình dung được những mối tương quan rắc rối, đầy khúc mắc tâm lý, kỳ cục giữa con người chiến thắng với kẻ bại trận (trong một xã hội đang …cần tiền để tạm sống còn) lại quên mất chính cha mẹ của mình gần mười năm mới đoàn tụ với các con; còn chị, chắc là một mình giữa đại dương bao la, thấy bóng nào thấp thoáng cũng tưởng là chim én báo tin xuân?
Hình như tôi đã khiến chị phải gian nan mò ra tận Hà Nội để nhờ người ta chỉ cách làm thủ tục đầu tiên “ký hợp đồng” để ra đi đoàn tụ gia đình! Tôi đã quên những lá thư dài của ba tôi kể chuyện “chạy” giấy tờ để được ra khỏi đất nước, chạy đến nỗi sau này qua hơn hai mươi năm ông mới chịu quay về Việt Nam thăm lại quê hương.
Có phải chuyện không thành vì sau đó không còn nghe chị nhắc nữa, mà khổ chưa, chúng tôi chỉ muốn giúp bạn. Thế là thế này: một người quen năm xưa từ Hà Nội lại sang làm luận án, nghe chuyện, hứa sẽ giúp đỡ chị vì tình bạn với chúng tôi.
Hay là bạn về chốn xưa, tình thân được cất kỹ đáy lòng, bạn từng nói thuở đó không nên/ không được giao du với người nước ngoài, nói cách khác là bạn lại nhập vào mainstream, lại phải tùy khúc, thế là người (ngoại quốc) xứ tư bản chẳng thể là bạn!
Nhớ lại những ngày hè đầu tiên năm ấy (1987), tôi lò dò đạp xe qua Thị Nghè tìm đến chị, thằng em khờ dại chạy trước dẫn đường. Ngôi nhà nhỏ trong ngõ hẻm ít nắng vì nhà nhà san sát nhau nhưng hoàn toàn chìm ngập trong tiếng ầm ầm của các con thoi chạy rần rật ở các khung máy trong xưởng dệt hàng xóm gần kế ngay bên vách. Chúng đè nghiến lên phần lớn ký ức của tôi. Hình như hai chị em phải dẫn nhau ra sân nói chuyện, chị nói huyên thuyên, nước mắt ròng ròng, tôi yên lặng nghe, mũi dãi cũng tùm lum.
Những năm đầu về nước, hầu như khi đến nhà bất cứ ai để nghe kể chuyện ba đào, tôi thường mít ướt như vậy, nhưng đây là lần duy nhất người kể khóc nhiều hơn người nghe.
Thời ướt át tính ra kéo dài từng 10 năm một:1975 đến 1985, từ 1987 đến 1997. Đến nay tuyến nước mắt tôi đã hoàn toàn khánh kiệt, tê liệt.
Có hai lần, nước mắt và nước mưa tháng bảy, tưới suốt đường đi, suốt tháng đi. Lần thứ nhất khi máy bay chao cánh cho tôi nhìn thấy nhánh Đồng Nai xanh nước rau má đặc quánh uốn lượn, lần thứ hai khi tôi đi lãnh …quà gửi về cho gia đình, ở cái chỗ gọi là Intershop, quốc tế hay quốc thể, mới dòm thấy đã muốn khóc. Và lòng như tơ vò đòi đoạn khi nhìn tờ giấy biên nhận đen thui nhỏ xíu ghi chữ bằng mực bút bi như rồng bay phượng múa, chuyền dần qua năm chiếc bàn cây ọp ẹp nằm sát cạnh nhau trên khoảng năm mét, để nhận lấy một cái gật đầu, một cái liếc mắt, một con dấu, một lời xướng tên mình, kẻ bỏ quên dấu sắc, người bỏ thành dấu huyền. A, tôi trở thành người xa lạ, với cả chính tôi.
Tờ giấy được chuyền qua mười bàn tay với 10 con mắt dị kỳ, 5 con bên trái dị òm diễu cợt, 5 con bên phải kỳ thị soi mói lạnh lùng. Thùng quà bị lột trần, gói, hộp, chai, hũ vuông tròn, nằm đảo điên, ngơ ngác, tội lỗi. Số mạng nó cũng y như chiếc va-li trút ruột ngổn ngang trên quày kiểm, khi qua cửa Tân Sơn Nhất, cô bé hải quan hôm ấy tươi cười: bộ đồ ngủ này xinh quá, chị cho em nhé. Ô, nhưng mà người chị bé thế kia, chắc em mặc không vừa. Chuyện như đùa! Tôi không nhìn ra tôi, không nhìn ra người, dù lạ, dù quen.
Ra khỏi nơi lãnh hàng, tôi chỉ kịp ngồi phệt xuống lề đường, nước mắt tuôn như bão lụt, khóc đua với trận mưa rào. Cô em chồng yên lặng cảm thông, chú Tư ngơ ngẩn, hai con mắt thất thần, cái môi dưới trễ xuống tận càm, cuống quít lo sợ: chị Ba sao vậy chị Ba.
Anh Giác đã dặn tôi cứ kể chuyện, miêu tả đời sống anh cho chị nghe. Nhưng ngồi bên chị hình như tôi nghe nhiều hơn là kể, mà có lẽ cũng chẳng nên kể gì về cái đời sống phẳng lặng, thanh bình và sung túc Âu Mỹ lúc bấy giờ? Hình như chị rất an tâm vì tôi quả quyết với chị rằng dù thông thường đàn bà con gái hay mê văn thi sĩ nhưng nhất định anh Giác chẳng (thể?!) có ai khác trong cuộc sống bận bịu vừa lo chuyện văn chương, lo sinh kế vừa lo nuôi con của anh ấy. Hai vợ chồng chúng tôi đã được anh đưa về thăm nhà, đến thăm toà soạn của anh, hình như báo Đồng Nai, được Phạm Việt Cường ra chờ sẵn ở đầu ngõ, dẫn lên nhà, nhìn thấy cô bé con anh đang ủi quần áo. Chúng tôi được anh chỉ dẫn tỉ mỉ cách làm báo, in báo. Chúng tôi thấy anh đi bỏ báo và đòi tiền quảng cáo cho báo (Đồng Nai), đi hỏi bài cho báo.
(Văn Học Nghệ Thuật và sau này Văn Học) và có cả thì giờ đem sách báo đến tặng tôi và đưa tôi đi thăm bác Võ Phiến (khi đó vừa mổ tim xong, còn nằm trong bệnh viện).
Tất cả người viết thời bấy giờ đều viết free, người làm báo cũng làm (từ hơi hơi) free (đến hoàn toàn free) dĩ nhiên người viết làm độc giả thì bỏ tiền ra mua báo, yêu văn chương chữ nghĩa đến thế thì thôi! Ôi một thời nghèo (tiền) mà ham (đọc/viết tiếng Việt).
Tôi nhớ đa số người viết ở miền Bắc tôi gặp thời bấy giờ và cả Việt Nam thời bây giờ (và cả công an…văn hoá), không hiểu được cái (mối/sự/si) tình đầy đam mê vô vị lợi này.
Gửi truyện ngắn đầu tiên, bài được đăng tôi lại được tặng một chồng Văn Học Nghệ Thuật bộ cũ, năm đó (1985) anh đang bắt đầu bộ mới. Thời gian sống nơi Midway City này hồn phách tôi lâng lâng trên mây, nhưng may quá hạnh phúc đoàn tụ, hạnh phúc gia đình riêng tư, đã níu chân tôi lại để khỏi bay đi luôn. Tôi lè phè nuôi con, tà tà đi chơi và làm chuyện nhà, tà tà vui sống nhưng mải mê đọc, mải mê viết.
Cho đến ngày nay mỗi lần về thăm gia đình ở California, mỗi lần đi thăm đất nước có cái định mệnh rất máu xương và nước mắt với Việt Nam này tôi vẫn sung sướng như khi trở lại chính quê hương mình, bồi hồi cảm động, bơi lội trong hạnh phúc và cảm kích. Đó là thời gian thất nghiệp thiên đàng nhất, chưa bao giờ tái bản được cho đến ngày nay. Tôi cứ thử tưởng tượng và tự hứa hẹn vài năm nữa thôi, về hưu, tha hồ…tái tạo lại thứ cảm giác, cái không khí thuở ấy. Nhưng cũng tự biết mình hứa cuội, vì từ thời còn nhỏ xíu đến bây giờ chưa bao giờ tôi thực hiện được chuyện tái tạo bất cứ khoảnh khắc hạnh phúc nào. Mỗi khoảnh khắc vừa qua chưa bao giờ giống hệt cái đã qua trước đó và chắc chắn lại khác xa với những sát na tương lai, nói chi đến …phút giây, đến ngày tháng sẽ tới!
Trong lần gặp đầu tiên với chị, tôi nóng lòng muốn biết làm sao chị có thể sống được khi vợ chồng, con cái xa cách đôi ngả như vậy? Trước đó, tôi đã khóc với ba của cô bạn thân sĩ quan VNCH bị tù 10 năm mới về và khóc với một cô bạn thân khác bố cũng sĩ quan, mà bác ấy đi đã 12 năm chưa thấy về. Tôi đã mềm rã với bà chị con bác ruột, người yêu chết sau ba năm tù cải tạo. Trong những ngày tháng ấy, tôi khám phá ra nhiều thứ hiện thực quá đau đớn. Rõ ràng quanh tôi có 10 người buồn và chỉ một người vui là bà cô ruột huân chương kháng chiến hạng nhì và một người con trai, trong bưng ra, được nhà nước cách mạng chia cho một căn biệt thự to đùng ở đường Điện Biên Phủ. Và chị Chi anh Giác là một hoàn cảnh khác, anh ra đi năm 1981, sáu năm rồi chị chưa gặp lại người chồng mà chị đã ra ngoài phường, xã mếu máo khai rằng hắn đã bỏ mẹ con tui đi theo vợ bé. Không thể tính gom chị vào trong một triệu người vui của ông Võ Văn Kiệt hay hai người vui của tôi.
Tôi thấy chị sống bằng chờ đợi và hy vọng. Những chờ đợi và hy vọng xen lẫn, cắt đứt bởi những phút giây tuyệt vọng, chán ghét, cũng lê thê chẳng kém. Thư chị sau đó gửi tôi đầy nước mắt, trên giấy và trong từng hàng chữ.
Hai mươi năm sau, mỗi lần gặp lại, tất cả những chi tiết vui buồn được chị thỉnh thoảng nhìn lại, vẽ lại bằng giọng kể hài hước, đôi lúc thoáng buồn sâu lắng. Như những vết thương không bao giờ lành hẳn. Như những phần đời bị cướp đi, những mất mát vô lý và bất nhân.
Ngày ấy chị kể về đời sống hàng ngày, về những hành động nhỏ để tích lũy phước đức, để chờ ngày chúng hoá thành phép lạ đưa đến đoàn tụ gia đình. Giúp đỡ bạn bè, cầu nguyện, như một lần thấy chị bỏ xe đạp, lật đật chạy đến giúp người phu đẩy chiếc xe thồ cồng kềnh nặng nề qua dốc cầu cao.
Năm 1991, gặp chị lần thứ hai, ở Cali. Tươi cười sống lại, chị đùa: mình vượt biên bằng máy bay, chỉ gặp hải tặc. ..Nguyễn Mộng Giác. Anh tiếp tục làm việc, viết lách. Thời khoá biểu đều đặn, mỗi trưa lái chiếc xe van ra công viên, tiếp tục viết. Chị ở nhà, lại chờ đợi, nhưng lần này, trong hạnh phúc. Hỏi anh, anh cười hiền, hai con mắt đen lấp lánh cười theo. Ừ, vui, đời sống khác hẳn, cơm canh ngon lành, giường chăn sạch sẽ, thơm tho.
Nếu không bàn chuyện văn chương viết lách thì anh chỉ cười, nói ít và nói ngắn. Lời nói tác giả ngắn và ít mà trong những trang sách của anh, nhân vật nào cũng nói nhiều, nghĩ nhiều, tâm tư, tâm sự, tâm tình nào cũng phong phú, giải bày đến tận cùng, thấu đáo, trước sau rạch ròi, hợp lý, chí tình. Anh là lòng cương quyết và nghị lực. Nhân hậu và nghiêm trang, mô phạm mà không cứng nhắc, dễ tha thứ cho người. Mỗi lần giở một trang Mùa Biển Động hay một trang sách nào của anh, tôi bồi hồi vẽ ra một anh Giác, chậm rãi từ tốn, ngồi viết say mê bên cạnh một hộp cơm đã hết hay một ly cà phê đã nguội và điếu thuốc tỏa đường khói.
Anh chỉ dẫn, giới thiệu và bảo tôi in sách và giúp tôi thực hiện việc đó. Quyển sách đầu tay của tôi (Mùa Hè, một nơi khác, 1986, NXB Văn Nghệ) ra đời được là nhờ anh. Những truyện ngắn gửi anh đều được anh ngợi khen, khuyến khích.
Mỗi lần đến thăm là anh cho sách, một lần kia, anh và anh Châu Văn Thọ với chú Võ Thắng Tiết cho tôi đến hai va ly sách, gần 150 quyển! Y như được 150 cây vàng (?!)
Về sau này, sau chuyến về nước bị công an quấy rầy, lại thêm thất nghiệp, lại thêm crise existencielle (?) tôi chán đời chán viết.
Anh hỏi thăm, hỏi bài, tôi hỏi lại anh viết để làm gì, anh kêu lên bắt đầu có vấn đề rồi đây nhưng cũng an ủi, phân tích lý do, khuyên lơn. Anh Giác ơi, coi vậy mà nào có phải như vậy đâu.
Anh chị vẫn tươi cười ân cần và vui vẻ mỗi lần chúng tôi đến thăm. Hẹn đi ăn nhà anh, hay hẹn đến nhà hàng.
Một lần mới sang, tôi gọi điện hỏi thăm, anh chị bảo tôi ra một nhà hàng gần nhà anh chị vì có thêm một nhà văn nổi tiếng cũng có mặt ở đó. Lần ấy tôi qua Cali một mình, lái xe lạng quạng đi lạc, đoạn đường từ nhà ba má tôi đến nhà anh mọi khi chỉ cần năm phút, qua nhà hàng thì cỡ bảy phút mà tôi bò quanh hơn một giờ đồng hồ mới đến được điểm hẹn. Khổ cái dạo ấy chưa có mobile phone. Chưa kịp mừng vì sống sót, khỏi lạc qua tới Mexico, tôi bị nhà văn kia mắng như tát nước, sao mà bất lịch sự thế, để người ta ngồi chờ cả tiếng đồng hồ, sao lại thế này, thế nọ…
Ít ra lãnh được tới hai, ba lít nước, ướt mem, tôi chỉ muốn độn thổ cho hết xấu hổ, nhưng chỉ biết vụng về xin lỗi, chống chế, hai năm rồi mới qua, quên coi bản đồ trước, chạy xe quẹo trái, quẹo theo trí nhớ…tồi tàn. Mà khu Bolsa này, đường thêm phố mới, cửa hành sinh sôi, lắm khi đổi chủ, đổi hiệu...Riêng anh chị vẫn hiền lành, tươi cười hỏi thăm, không thêm một câu khó nào cho tôi.
Khi anh bị tấn công tới tấp vì một chi tiết trong bộ Mùa Biển Động, anh có hỏi nếu là tôi thì tôi làm sao? Tôi sôi nổi: đừng thèm trả lời anh Giác ơi.
Tưởng tranh luận về điều gì ích lợi hơn cho tác giả hay độc giả …Dĩ nhiên, anh điềm tỉnh đương đầu sóng gió, trả lời, tranh biện, thư từ tùm lum. Đâu đó rồi lại yên. Y như chuyện về với chẳng về, dù rõ ràng đi với về chẳng giống gì nhau hay cùng một nghĩa như nhau, tùy góc độ nhìn, ai cũng có cái lý của mình, cãi nhau chi cho sinh mệt, sinh chuyện.
Nhưng rõ ràng, tôi đã trả lời anh theo cảm tính. Cho dù đôi khi cảm tính cũng mang chút màu lý trí. Thí dụ như ngày nay, Sông Côn Mùa Lũ tràn về nước Việt, sách được tái bản đến con số làm mơ ước những nhà văn thứ thiệt. Tác giả về nước lãnh tiền, gặp gỡ những nhà văn thứ thiệt, bán bản quyền để đạo diễn thứ thiệt làm phim. Cảm tính nói với tôi rằng thấy người ta không sòng phẳng đến nơi đến chốn: độc giả không biết gì về nhà văn Nguyễn Mộng Giác và những tác phẩm khác của anh. Có phải vì ngoài cái nhãn hải ngoại, nhà văn của chúng ta chẳng kiêm một chức vụ nào khác. Nếu bắt chước trong nước, gọi anh giáo sư nhà văn nhà báo Nguyễn Mộng Giác (nghe kỳ kỳ vì chức danh dài thoòng này chẳng khiến anh quý giá thêm) hoặc thiếu (cái) tướng (oai vệ/đường bệ) nhà văn Nguyễn Mộng Giác hoặc tiến (mãi không lùi vì) sĩ (diện) giáo sư nhà văn Nguyễn Mộng Giác đi thăm viện mồ côi X, cho tiền Câu Lạc Bộ Tình Thương Y…và tặng phong bì …chắc là báo chí, ti vi sẽ đua nhau kể chuyện anh đạp xe qua cầu Thị Nghe, mải mê nghĩ về Nguyễn Lữ, suýt rơi xuống nước hay đi tuốt ra Bến xe miền Đông vân vân – cái nguy hiểm là nếu tiếp tục như thế, bộ sách thứ hai Mùa Biển Động sẽ sừng sững lố dạng…Ô, như thế thì anh sẽ gây khó cho lắm người, họ sẽ không cách nào mà đính chính với bọn trẻ về lịch sử cận đại nước ta.
Điều đáng kể với tôi là những trường thiên, những tác phẩm anh để lại, là của người Việt hải ngoại (alias ngụy cũ, là kẻ phản bội dân tộc, ôm chân đế quốc), một điều khác nữa là anh chứng tỏ được lòng yêu văn chương và chuyển được tấm lòng yêu văn chương ấy đến bạn bè và lớp người viết mới, già lẫn trẻ. Tôi cảm ơn anh đã khiến tôi tự hào và hãnh diện lây.
Một lần trong métro Paris, chúng tôi nhìn thấy một phụ nữ Việt, ngồi xem say mê, quyển Mùa Biển Động, không buồn ngẩng đầu nhìn tên những trạm qua.
Hơn một lần tôi cũng đã hồi hộp theo bước chân Lãng, say mê đọc những diễn tiến trong truyện như những đoạn phim tài liệu lịch sử (thứ documentaire authentique) quý giá, với cách trình bày (& montage) rõ ràng mà gay cấn… tôi cũng như chạy theo bước nhiều người nam khác, tuy có hơi sốt ruột khi nghe họ bàn chuyện thời thế, văn chương, chính trị: Ngữ, Tường, Ngô …Nhưng tôi chẳng mê được những nhân vật nữ của anh, Nam, Diễm, Quỳnh Như…tôi thấy họ …không giống ai …như tôi đã biết. Có lẽ vì tôi chưa hân hạnh quen thân với bà phụ nữ người Huế nào nên chưa hình dung được chăng.
Cái khổ của việc quen biết tác giả chắc là ở đây, nhưng làm sao nghe lời khuyên của bác Mai Thảo: đừng bao giờ tìm gặp, làm quen với tác giả; tôi làm quen và nhiều khi quen thân các tác giả, đến nay vẫn yêu mến và muốn giữ mãi tình thân với tuyệt đại đa số các tác giả ấy. Và buồn bã ngậm ngùi khi biết rằng từ nay chẳng còn bao giờ được anh tươi cười chào đón mỗi lần ghé qua, chẳng bao giờ còn nghe tiếng nói nhỏ nhẹ ân cần, không còn nhìn thấy ánh mắt đen sâu, thông minh và nhân hậu, ánh mắt nói cười theo tiếng nói.
Phật và các vị Thầy dạy rằng không truy tìm/tiếc nuối quá khứ, không chờ đợi/vọng tưởng tương lai, mà nên sống trọn với hiện tại. Nhưng thưa Thầy, hiện tại ngắn ngủi, chất chứa nhiều câu hỏi, chưa kịp ngáp/đáp đã hoá ra quá khứ. Thành ra con cũng như một số đông người, khi có dịp, đều thích sống bên này hoặc bên kia lằn ranh thời gian.
Nhất là ở bên phía quá khứ, lắm lúc, như hôm nay, rõ ràng ôn quá khứ để sống lại những lúc êm đềm, khơi lại những hình ảnh xưa để thấy rõ ràng những đau đớn cũ đã biến mất hoặc nếu chỉ phai nhạt, còn phảng phất vương vấn đâu đây, thì công dụng của phai nhạt ấy, vương vấn ấy là để tô rõ, nhấn mạnh niềm hạnh phúc đã có.
Cái buồn và ngậm ngùi mất mát ấy cũng không kéo dài vì tôi biết anh đã về cõi niết bàn, sống (và viết) như anh rồi chết như chị đã chuẩn bị cho anh, tôi tin chắc rằng anh ra đi bình thản, an nhiên.
Phan Thị Trọng Tuyến
25/08/2012