(Đọc Tập Truyện Ngựa Nản Chân Bon)
Tôi nhớ trong bài diễn văn nhận giải Nobel năm 1950, văn hào William Faulkner của Mỹ đã nói:
“Tôi tin tưởng là con người không chỉ chịu đựng để sống còn, mà nó còn thắng cả định mệnh của nó. Con người bất tử không phải ở chỗ nó là loài vật duy nhất trong các tạo vật cất lên tiếng nói không mệt mỏi về thân phận của chính mình, nhưng ở chỗ nó có một thần khí, một tâm hồn có khả năng trắc ẩn và hi sinh và chịu đựng. Nhiệm vụ của nhà thơ hay nhà văn là phải viết về những điều ấy. Trọng trách của nhà văn nhà thơ là phải giúp con người chịu đựng để sống còn bằng cách nâng cao tâm hồn con người, bằng cách nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và hy vọng và kiêu hãnh và bác ái và từ bi và hi sinh đã là vinh quang huy hoàng của quá khứ nó.”
Nhà văn, như thế, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có trọng trách phải nhận lãnh và chu toàn sứ mệnh thiêng liêng cao quí này. Trong hoàn cảnh là một nhà văn Việt Nam lưu vong, ngoài nhiệm vụ giúp con người-đặc biệt con người Việt Nam-chịu đựng để sống còn, ngoài trách nhiệm nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và bác ái và hi sinh đã từng là những điểm sáng soi chiếu vóc dáng nó, nhà văn Việt Nam còn phải nhắc nhở con người về tính nhân bản mà nhiều khi nó đã bỏ mất, về sức sống và sự chịu đựng mãnh liệt để tồn tại và vươn tới của con người Việt Nam, và về sự hi sinh của dân tộc Việt Nam trong cố gắng mở mắt nhân loại trước hiểm họa cộng sản. Những nhà văn Việt Nam lưu vong đã và đang làm việc đó.
Một trong những nhà văn Việt Nam có mặt trong hàng ngũ ấy mà tôi muốn nói đến trong bài viết này là Nguyễn Mộng Giác.
Sự góp mặt của Nguyễn Mộng Giác trong sinh hoạt văn học nghệ thuật ở hải ngoại có lẽ chỉ trên dưới một năm qua, vì sau biến cố 1975, hoàn cảnh đã bắt ông phải ở lại quê nhà để phải nhìn ngắm và suy gẫm về những cảnh tang thương của đất nước, của những mảnh đời cơ cực, trong đó có cả những mảnh đời của ông, bị bóp nghẹt và dày vò dưới áo màu chủ nghĩa. Ông cũng đã phải vào tù ra khám lắm bận, vì những tội lỗi mà bất cứ một người Việt Nam nào cũng có thể mắc phải, đặc biệt nếu người Việt Nam ấy lại là một nhà văn.
Có thể một số người ở đây, nhất là giới học sinh sinh viên trẻ, chỉ có dịp biết Nguyễn Mộng Giác trong thời gian vừa qua (**) khi ông xuất hiện ở một số những tạp chí như Văn, Đất Mới, Nhân Văn, và nhất là ở Đồng Nai trên trang “Văn Nghệ” do ông coi sóc, nhưng Nguyễn Mộng Giác đã là người thực sự góp phần trong sinh hoạt văn học nghệ thuật ở Việt Nam từ những năm 70 và thường viết cho tạp chí Bách Khoa.
Từ 1972 đến 1974, Nguyễn Mộng Giác đã xuất bản được 5 tác phẩm, trong đó cuốn Đường Một Chiều đã vinh dự đoạt giải thưởng của trung tâm Văn Bút Việt Nam năm 1974.
Trở lại chuyện Nguyễn Mộng Giác là một nhà văn, với một bản chất trầm tĩnh, với những suy nghĩ lắng vào chiều sâu, cuộn vào bên trong, con người nhà văn ấy, trong những cảnh sống của mình ở Việt Nam, đã ghi nhận, suy nghĩ và thẩm thấu những kinh nghiệm đau thương mà dân tộc Việt phải chịu đựng dưới chế độ mới. Những kinh nghiệm và suy tư ấy lắng dần, lậm dần vào bên trong, và tụ lại thành một khối chất ngất xót xa. Như viên ngọc trai cứ cứa mãi vào thân mình con sò. Rồi con sò một ngày kia theo sóng trùng khơi tấp thoát ra bể cả, giạt vào Kuku và Galang, Indonesia. Ở đó, với trời mây sóng nước tự do, con sò lại làm lóng lánh thêm viên ngọc trai của mình, với những kinh nghiệm dập vùi ở đảo, những kinh nghiệm và suy tư cứa cắt mãi vào những thao thức. Và viên ngọc đẹp lên, lớn dần. Khi qua đến Mỹ, sau một thời gian chuẩn bị kỹ càng, Nguyễn Mộng Giác đã trình bày cùng chúng ta tác phẩm của ông, với một tâm tình thiết tha và với một thái độ cẩn trọng.
Tập truyện Ngựa Nản Chân Bon là những gì tôi muốn nói đến. Chỉ xét phần kỹ thuật, ta cũng nhận thấy tác giả đã hết sức cẩn trọng trong việc giới thiệu tác phẩm của mình với độc giả. Hai trăm trang chữ in thật đẹp và sạch. Chữ Việt Nam, bỏ dấu bằng máy cẩn thận. (***) Các trang sách được mise sạch và sáng. Bìa giản dị, ẩn chứa sự mực thước và cẩn trọng cố hữu của tác giả.
Sự cẩn trọng và mực thước này được phản ánh rõ rệt nơi mỗi dòng chữ được nhà văn viết ra, cũng như nơi mỗi nếp gấp suy tư của tác giả. Các truyện ngắn trong tập Ngựa Nản Chân Bon đều toát ra cái phong độ trầm tư, dung dị và cẩn trọng ấy, mặc dù có những đoạn, cái phong độ kia đã nhường chỗ cho sự hóm hỉnh của những nhận xét bề ngoài có vẻ nghịch ngợm nhưng thực chất lại rất thâm thúy.
Nhưng điểm nổi bật làm cho người đọc nhìn thấy rõ, và từ đó, yêu Nguyễn Mộng Giác, là tấm lòng thiết tha, nhân bản đầy tính lân ái trong những câu văn và tư tưởng của ông.
Chẳng hạn như trong truyện ngắn Bầu Ơi Thương Lấy Bí Cùng. Câu nói giận dữ của gã vệ binh Việt cộng với người mẹ nhân vật chính-là một người đang bị giam trong trại tù cải tạo tại Gia Rai-đã cho thấy nỗi xót xa của thân phận con người trong chế độ cộng sản:
– … Các người còn muốn đòi gì nữa? Chồng con các người mang tội với nhân dân phải học tập cải tạo nhưng còn có ngày được về. Còn tôi đây này, nhập ngũ từ 1965, đi khắp các chiến trường cho đến lúc về ở cái xó rừng này, biết bao giờ tôi mới được về? Chồng con các người còn được tiếp tế giỏ này giỏ nọ. Còn tôi đây, vợ con không có đủ tiền gửi cho lấy một cái kẹo. Các người có dư tiền để mua vé xe lửa lên đây thăm nuôi. Vợ tôi biết tôi ở đây từ hơn hai năm nay, chưa thấy mặt tôi gần bảy năm rồi mà không có đủ tiền mua lấy cái vé xe hạng chót! Các người còn đòi gì nữa!
Câu nói-như một tiếng khóc, một nỗi cay đắng bị ngăn lại không cho chảy tràn ra-của người quản giáo đã bộc lộ thật rõ nét bản chất của chế độ đỏ. Những kẻ cầm đầu guồng máy, những kẻ ăn trên ngồi trốc, đã dùng những danh từ cao đẹp như một thứ ảo tưởng, một thứ bánh vẽ, để lợi dụng lòng tin, lòng yêu nước của cả một thế hệ và đẩy họ vào những phiêu lưu không tưởng, những tín điều bao-gấm-bọc-nhung chết người. Cũng thế, dùng chuyên chính vô sản, họ đã kìm kẹp và đẩy người dân vào những cảnh ngộ cay đắng và khổ đau không cùng: kẻ ở trong vòng bị quản thúc như con thú; còn kẻ ở vòng ngoài-được lệnh coi giữ những con thú-thì cũng chỉ là những con thú khác, cũng bị xoi móc điều khiển bởi Đảng và Nhà Nước. Dù sao, kẻ ở trong vòng và kẻ ở ngoài vòng đều đã có những suy nghĩ thật sự con người. Họ đều ý thức rõ về hoàn cảnh sống của mình. Chỉ có Đảng là không cần có ý thức. Đảng ở ngoài những sự suy nghĩ nhân bản kia, và hành động như một thứ người máy không có nhân tính và trái tim. Mục đích của nó là hủy diệt con người. Con người, theo hướng đi và theo suy nghĩ của Đảng, sẽ phải bị bóp bẹp và dát mỏng thành những con người nhất-mẫu-nhất-bề để cho nó sai khiến. Đảng có làm được việc này hay không là do quyết định còn lại của những con người đang bị giam giữ trong vòng trong vòng ngoài, tầng đầu tầng cuối địa ngục kia. Và cũng là do quyết định của chúng ta, những con người đang được hít thở bầu khí tự do nơi thế giới không cộng sản.
Trở lại với câu nói của người vệ binh về cuộc sống không ngày mai của anh ta, chúng ta thấy cháy lên ánh lửa nhân bản trong đó, và chúng ta xót xa cho thân phận con người trong bàn tay chế độ. Cũng trong truyện ngắn này, hình ảnh hai con người, một là tù nhân, một là canh tù, đi bẻ trộm bắp để ăn cho đỡ đói trong đêm rừng gió hú ở Gia Rai thật là tội nghiệp. Một lần nữa, tính nhân bản lại sáng lên nơi những con người này. Họ khám phá ra nhau trong nỗi bẽ bàng của chế độ. Rồi thông cảm nhau, họ ngồi tâm sự bên ngọn lửa rừng. Thiết tha. Tình thương được vực lên. Tựa đề Bầu Ơi Thương Lấy Bí Cùng thật có ý nghĩa trong hình ảnh chia sẻ này, cũng như trong mắt nhìn nhân ái của ta về cái thế sống tàn úa của anh vệ binh kia.
Có những người cho rằng sự hóm hỉnh của tác giả nằm trong đoạn kết. Sau khi đã cho ta thấy ý nghĩa của câu chuyện, lại đẩy ta chạm mặt vào nỗi trớ trêu khi anh vệ binh Việt cộng về thăm nhà, vợ anh đã có thêm một đứa con nhỏ. Không phải con của anh. Thấy anh về, chị vợ đã hát ru đứa bé một cách lơ lửng bằng câu ca dao quen thuộc:
Trong nhận xét của tôi, về mặt bố cục, sự kiện này cũng như đoạn kết của truyện đã, phần nào, phá hỏng cái chủ đề mà tác giả muốn trình bày qua truyện ngắn đẹp đẽ vừa nói. Nó làm cái theme chính của câu truyện bị hẫng đi, làm người đọc bị out-of-focus, bị kéo ra khỏi cái nhân trung tâm của truyện một cách đáng tiếc. Nó khôi hài hóa một sự kiện không nên khôi hài, và dùng sự kiện ấy để đóng lại một câu truyện thiết tha mà ngọn lửa chính của câu truyện ấy là lòng lân ái, tính nhân bản, sự bao dung và tình thương yêu giữa người và người.
Dù sao, tôi vẫn luôn yêu cái nụ cười hiền lành, lòng chung thủy, và trái tim nhân hậu của Nguyễn Mộng Giác. Đọc Thư gửi cho đám mây xa, Tố Chân, Mẹ trong lòng người đi, ta thấy được sự thiết tha của tác giả đối với những bản chất đẹp đẽ của con người. Thao thức, băn khoăn về những vấn đề của con người, nhưng Nguyễn Mộng Giác vẫn còn thiết tha nhớ đến ánh mắt và môi cười dịu hiền cũng như vòng tay bao dung của Mẹ. Nguyễn Mộng Giác vẫn nhớ đến tà áo bay trong gió lộng sóng chiều của người yêu một thuở. Đó là những tình cảm thật sự cao quí và thiết tha của con người. Chúng làm ta yêu mến và gần gũi Nguyễn Mộng Giác hơn. Ta yêu Nguyễn Mộng Giác vì ông đã diễn tả hộ ta những tình cảm mà ta vẫn luôn nuôi dưỡng nhưng ít khi có dịp tỏ bày ra này.
Tập sách có một số truyện lấy bối cảnh là những kỷ niệm cũ ở quê nhà, một số truyện khác mô tả cảnh sống của những con người bình thường trong một xã hội tan nát dưới chủ nghĩa đỏ, một số truyện khác lại nói lên được những mảng sống của những con người trôi dạt ra khỏi quê hương-những con người trên đảo tỵ nạn và những mảnh đời tan tác, xót xa của họ. Nhưng dù đặt những nhân vật của mình trong bất cứ một hoàn cảnh sống nào, một không gian vật lý hay tinh thần nào, dù có cố gắng soi chiếu tâm hồn và trái tim con người dưới nhiều góc độ và ánh sáng khác nhau, Nguyễn Mộng Giác, trong sự quan sát của tôi, ít nhất qua tập truyện này, vẫn là một nhà văn của tình yêu thương con người và của những giá trị nhân bản cao quý. Ngòi bút của ông tỏa sáng cái ánh sáng lân ái ngay khi nó kéo người đọc vào cuộc để nhìn rõ những đau đớn, những cơn lâm lụy của đời. Trong truyện Bầu Ơi Thương Lấy Bí Cùng, khi suy nghĩ về sự kiện những người tù cải tạo miền Nam được dân chúng ném cho quà bánh, hay khi kể lại chuyện một người mẹ miền Nam-mẹ của nhân vật chính, là một sĩ quan đang bị “học tập cải tạo” trong truyện-ngày xưa, đã thương xót và về nhà thắp hương lạy Phật cầu nguyện cho những du kích chết xác trương phình trong thành phố-những người tuổi trẻ miền Bắc bị Đảng Cộng Sản tẩy não và dẫn dụ để hy sinh một cách vô ích cho những ảo vọng mù quáng, chết đi mà trên người chỉ có cái quần đen và mo cơm thiu cột ở thắt lưng-Nguyễn Mộng Giác đã nói đến tấm lòng lân ái ấy. Tấm lòng lân ái này, trong cảm nhận của tôi, có địa chỉ nơi trái tim của con người từ những ngày xa xôi lắm, trước khi lịch sử nhìn thấy những buổi rạng đông của nó. Đó là những ánh lửa đẹp và nóng, cháy đỏ trong tấm lòng của con người ngay trong những ngày nó còn sống trong những cõi tối của lịch sử, khi nó biết rời bỏ những hang động riêng tư của mình để bắt đầu cuộc sống bầy đoàn, để chia sẻ và gánh vác chung với nhau cái thân phận mỏng manh yếu đuối của mình trước một thiên nhiên âm u và đầy đe dọa. Và chính là trong sự sẻ chia, để một ánh mắt nhìn đến người khác ấy, con người tạo được ý nghĩa cho cuộc sống mỏng dòn và ngắn ngủi của nó. Nguyễn Mộng Giác có một suy nghĩ sâu sắc và thật nhân bản khi ông viết: “Lòng cao thượng, tinh thần hiệp sĩ, cốt tủy của bản tuyên ngôn nhân quyền, hay nền tảng của hội hồng thập tự quốc tế, có lẽ chỉ là cái ngọn của lòng lân ái đối với kẻ thất thế bất hạnh mà thôi.”
Là một người mới vượt thoát khỏi chế độ cộng sản, và, chắc chắn, như bất cứ một người Việt Nam nào khác chọn lựa con đường vượt biển để tìm lại lẽ sống cho cuộc đời mình, Nguyễn Mộng Giác đã mang mạng sống của chính mình để đánh cược với định mệnh. Vậy mà, khi đến được bến bờ tự do, ông đã không chọn để giữ lại trong lòng mình những sự hận thù, cay đắng, mà chỉ chọn lựa để nói lên lời yêu thương, nói lên lòng lân ái của con người đối với con người. Điều ấy, trong mắt nhìn của tôi, Nguyễn Mộng Giác đã chọn lựa thái độ của một người muốn vinh danh điều thiện và muốn gieo cấy trong lòng người những mầm sống thiết tha, nhân bản. Tôi cho đó là thái độ xứng đáng và cần thiết của một nhà văn.
Điều cuối cùng mà tôi muốn nói đến ở đây về Nguyễn Mộng Giác là nỗi băn khoăn của ông về thân phận con người, về giá trị của cuộc sống con người trong cuộc-phù-du-giả-tạm của nó trên cõi đời này. Những suy nghĩ có tính cách triết lý kia được dàn trải trong Ngựa Nản Chân Bon-được viết trong thời gian ông ở trên đảo tỵ nạn-mà tôi cho là truyện ngắn đặc sắc nhất của Nguyễn Mộng Giác từ trước đến nay (và tôi không biết là, sau này, trong cuộc sống tất bật trên xứ người, tác giả sẽ còn có cơ hội và điều kiện tinh thần để viết được một truyện ngắn khác có tầm mức giá trị nghệ thuật và triết lý cao như truyện ngắn này hay không.) Truyện Ngựa Nản Chân Bon đã được dùng làm tựa đề cho toàn tập truyện của ông.
Câu truyện mở ra với một khung cảnh và một giọng văn làm nhớ tới những dòng chữ đầu tiên trong Doctor Zivago của Pastenak:
Gió vi vu làm nền cho lời ca thánh: “… Nhờ công ơn lân tuất của Chúa ta, Đấng đã từ cao cho “Mặt trời mọc” đến thăm viếng và soi sáng cho những ai còn ngồi trong u tối và trong bóng chết để dắt chúng ta trên con đường an lạc. Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được yên nghỉ muôn đời và được hưởng ánh sáng ngàn thu. Ta là sự sống lại là sự sống. Ai tin ta thì dù có chết cũng sẽ được sống lại, và ai sống mà tin ta thì không phải chết đời đời.”
Vị linh mục đọc kinh “Lạy Cha”… và rảy nước thánh lên chiếc quan tài đóng vội bằng gỗ ván thuyền. Vợ người quá cố khóc thảm thiết (…)
Từ khung cảnh và không khí của một đám tang làm vội trên đảo tỵ nạn theo nghi thức Công Giáo như thế, Nguyễn Mộng Giác dẫn người đọc vào câu truyện, đồng thời, đặt vấn đề cho câu truyện của mình.
Vấn đề mà Nguyễn Mộng Giác đặt ra trong truyện ngắn này là ý nghĩa sự sống cũng như cái chết của con người. Và vấn đề là thu xếp cuộc đời mình-bao gồm cả hành động tự tử-đã được đặt thành một cái nhân cốt yếu, quanh đó những suy nghĩ luận giải xoay chuyển.
Vấn đề sống chết là một vấn đề muôn thuở của con người. Hiện hữu hay không hiện hữu. To be or not to be, that is the question. Đó là một đề tài triết lý có tính cánh trầm trọng, quyết định thái độ sống của con người trong cuộc sống phù-du-giả-tạm này. Tôi nhớ, trong những dòng đầu của Le Mythe de Sisyphe, Albert Camus có viết:
Chỉ có một vấn đề triết lý thật sự quan trọng: đó là vấn đề tự tử. Thẩm định rằng cuộc đời đáng hoặc không đáng sống, là trả lời cho câu hỏi căn bản của triết lý.
Nguyễn Mộng Giác, trong bố cục của câu truyện, đã đưa ra bốn cách thu xếp cuộc sống khác nhau của bốn nhân vật có thật, đang sống hay đã chết tại Việt Nam. Những cách thu xếp ấy đã tiếp tục mở ra những cánh cửa cho những thao thức băn khoăn của chúng ta đi về. Nó đặt lại ý nghĩa của sự sống và cái chết mà con người đang vẫn phải đối đầu hằng ngày. Nó làm vọng lên hơi thở và nhịp đập muôn đời của trái tim nhân loại trên đường hoàn tất cuộc lữ thứ của mình. Trong hoàn cảnh của những con người Việt Nam, dù đang phải sống lưu đày ngay trên quê hương khốn khổ hay đang phải làm thân lữ thứ ở chốn quê người, ý nghĩa của sự sống thật sẽ sáng lên khi chúng ta nhận thức rõ được những giá trị trong cuộc sống mình. Sự hy sinh, chịu đựng trong mọi gian khổ để trường tồn chứng minh rằng con người sẽ mãi bất tử, và không những nó tiếp tục sống, vượt qua mọi khổ đau, vượt qua mọi thử thách, mà nó còn vinh quang thắng trận trong cuộc chiến cho sự tốt đẹp trên sự xấu xa, cho nhân tính nở hoa trên thú tính bị đẩy lùi vào bóng tối. Những điều ấy phản ánh ý nghĩa câu nói mà William Faulkner đã gửi đến chúng ta. Trong khổ đau ê chề, ta vẫn sống và tạo lại ý nghĩa cho mỗi giây phút sống của đời mình. Như chàng Sisyphe trong thần thoại Hy Lạp vẫn bước trở xuống chân núi để tiếp tục đẩy tảng đá lên cao:
Mỗi một giây phút đó, khi chàng [Sisyphe] rời những đỉnh núi cao để bước từng bước một trở về những hang động của thần linh, chàng thật sự cao cả hơn chính định mệnh chàng. Chàng mạnh hơn chính tảng đá của chàng [tảng đá mà chàng phải tiếp tục đẩy lên mãi].
(Le Mythe de Sisyphe)
Chúng ta, những kẻ đang chiến đấu bằng cách này hay cách khác ở quê nhà, cũng như những kẻ đang góp sức mình trong những lĩnh vực khác nhau của đời sống lưu vong này để tìm một ngày trở về quê Mẹ, không phải hoàn toàn như những chàng Sisyphe. Chúng ta sẽ không mãi mãi phải đẩy tảng đá lên đỉnh núi, để rồi luôn luôn tảng đá sẽ lại rơi xuống. Mà chúng ta sẽ đẩy và, một ngày nào đó, giữ tảng đá đứng yên trên vị trí chót thẳm kia. Dù sao, ngay bây giờ, chúng ta phải giữ lấy ý chí của chàng Sisyphe để tìm thấy ý nghĩa cao cả và đích thực của cuộc sống. Sống là để chiến đấu và để vượt thắng. Và chúng ta ý thức được sự chiến đấu và vượt thắng của mình.
Nguyễn Mộng Giác đã kể lại câu truyện một cách thật lôi cuốn. Cái lôi cuốn của những luận giải, những suy nghĩ rất siêu hình mà cũng lại rất đời thường. Cái lôi cuốn của một giọng văn đầy chất kích thích của những băn khoăn, trằn trọc đầy màu sắc triết lý nhưng lại được trình bày và mô tả bằng những mảng sống tươi đỏ, có thật, và còn đang chảy máu. Và chính sự chảy máu, sự roi rói ấy trong câu truyện ông kể, đã dẫn chúng ta, những người đọc ông, chạm mặt với sự sống. Và với cái chết. Để từ đó, ta tự tìm ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết giữa đời. Đưa dẫn người đọc một cách thành công vào những suy nghĩ đầy tính chất siêu hình mà lại cũng rất con người này, Nguyễn Mộng Giác, trong đánh giá của tôi, là một nhà văn có chiều sâu và có bản sắc. Ông chiếm lĩnh tâm hồn người đọc bằng cách bước vào trong cái thế giới tâm hồn ấy và để lại một ngọn đèn cứ còn chong sáng mãi cái ngọn lửa siêu hình-nhưng lại tràn đầy hơi ấm nhân sinh-của nó trong lòng hắn. Từ đó, những người quen biết với Nguyễn Mộng Giác phải tiếp tục đổ dầu vào ngọn đèn cháy sáng trong lòng mình. Tạo dựng được một mối liên hệ đầy ý nghĩa như thế với người đọc, tôi nghĩ, với tư cách là một nhà văn, Nguyễn Mộng Giác là một con người hạnh phúc.
Trong đoạn kết của truyện ngắn Ngựa Nản Chân Bon, Nguyễn Mộng Giác có đưa ra hình ảnh dòng nước sâu ngựa nản chân bon, và đặt một vài câu hỏi triết lý qua sự suy nghĩ của một nhân vật trong truyện:
Nếu ta, một lúc nào đó mang tâm trạng của con ngựa nản chân bon kia ta sẽ làm gì?
Lấy hết sức hí lên cho vang động núi rừng?
Uống nước suối độc tù hãm bên cầu Nại Hà rồi lăn ra chết?
Hay là nhảy đại qua vực để hy vọng đạp vó lên Mé Vĩnh Cửu?
Ngay sau đó, tác giả, cũng qua quyết tâm của nhân vật, đã khẳng quyết: Tôi nhất định không vì nản chân bon mà làm con ngựa gỗ.
Nếu kết luận của truyện Ngựa Nản Chân Bon nhắc nhở chúng ta cái thái độ và cung cách sống cần thiết của một người Việt Nam trong nỗi xót xa của vòng quay lịch sử này để làm một cuộc vượt thắng, thì Nguyễn Mộng Giác quả thực đã chu toàn được một cách đẹp đẽ sứ mạng của một nhà văn là giúp con người chịu đựng để sống còn bằng cách nâng cao tâm hồn của con người, bằng cách nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và hy vọng và kiêu hãnh và bác ái và từ bi và hy sinh đã là vinh quang huy hoàng của quá khứ nó.
Bùi Vĩnh Phúc
California
tháng Hai, 1984
(*) Đặt theo tên một tiểu luận của Nguyễn Mộng Giác, viết vào thập niên 70, “Nỗi băn khoăn của Kim Dung”.
(**) Xin nhớ là bài này được viết trong thời điểm tháng Hai, 1984, khi, trong cái nhìn hồi cố của chúng ta, đặc biệt của những người viết văn học sử, số lượng nhà văn Việt Nam cầm bút ngoài nước còn rất ít. Những người viết cũ chỉ là một con số èo uột, trong đó có những người không còn cầm lại cây bút, và thời gian chưa kịp nuôi lớn dậy hoặc khám phá ra những người viết mới.
(***) Chúng ta hãy nhớ rằng, từ 1975 đến khoảng những năm 1983, 1984, nhiều sách vở, báo chí của người Việt ngoài nước còn phải đánh máy và bỏ dấu bằng tay. Những sai sót về chính tả, và, từ đó, kéo theo những sai sót về ý nghĩa của từ, ngữ, là điều còn khá thường xuyên.
