Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Trang NhàTruyền ThôngPhỏng VấnPhỏng vấn nhà văn Nguyễn Mộng Giác

Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Mộng Giác

Nguyễn Mạnh Trinh thực hiện

NMT: Xin anh cho một vài dòng tiểu sử về mình.

NMG: Tôi sinh năm 1940 tại Ngân Sơn, Phú Yên nên có một số truyện ngắn và bài báo tôi lấy bút hiệu Nguyễn Ngân Sơn. Ðó cũng là quê hương của nhà văn Võ Hồng. Nhưng nguyên quán của tôi là làng Xuân Hoà, huyện Bình khê, tỉnh Bình Ðịnh, một làng nhỏ nằm một bên con sông Côn. Bên kia sông là quê hương của anh em nhà Tây Sơn. Như anh biết, thời gian chín năm kháng chiến chống Pháp, Bình Ðịnh thuộc vùng kháng chiến, liên khu 5. Tôi lớn lên, học hành trong vùng kháng chiến, mãi tới sau hiệp định Genève quê tôi mới được chính quyền quốc gia tiếp quản. Sau hai năm thất học trước đó, tôi tiếp tục học tiếp trung học ở Qui nhơn, Nha Trang và Sài gòn. Sau một năm học Ðại học Văn khoa Sài gòn, tôi chuyển ra Huế học Ðại học Sư phạm Ban Việt Hán. Tốt nghiệp năm 1963, tôi đã dạy văn chương tại các trường Ðồng Khánh Huế, Cường Ðễ Qui nhơn. Sau một thời gian làm hiệu trưởng trường Cường Ðễ, chánh sở Học chánh Bình Ðịnh, tôi chuyển vào Bộ Giáo dục ở Sài gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục.

Sau 1975, bị sa thải vì những cuốn sách đã viết và chức vụ cũ đã giữ, tôi thất nghiệp một thời gian, làm đủ thứ nghề mà chẳng nghề nào thành công, bán sách cũ, làm mì sợi. Cuối năm 1981, tôi vượt biển theo ngả Nam Dương, ở các trại tị nạn Kuku và Galang gần một năm. Ðúng ngày lễ Tạ Ơn năm 1982, tôi đặt chân đến Hoa Kỳ. Như vậy là tôi đã ở đây trên 13 năm. Tôi lập gia đình từ năm 1965, và có ba cháu nay đều đã trưởng thành.

NMT: Còn cuộc đời văn chương?

NMG: So với các bạn văn cùng thế hệ, tôi bắt đầu viết lúc đã ngoài ba mươi. Thật ra nói như thế cũng không đúng hẳn. Người cầm bút nào mà không tí toáy thử viết cái này cái nọ lúc còn ở tuổi niên thiếu. Tôi cũng vậy. Nhưng sau khi đọc phải những tác phẩm bậc thầy, nhất là gặp Dostoievsky, tôi xé bỏ hết những gì mình đã viết. Tôi tôn Dostoievsky làm thần tượng. Cho đến nay, tôi vẫn còn giữ tấm ảnh cũ của Dostoievsky tôi từng dán trước bàn viết thủa ban đầu.

Nếu hiểu “viết” có nghĩa là “viết và phổ biến bằng chữ in” , thì tôi khởi viết từ 1971, nhiều nhất, đều đặn nhất là trên tạp chí Bách Khoa. Trước 1975, tôi đã in được 5 tác phẩm: Nỗi băn khoăn của Kim Dung (tiểu luận), Bão rớt (truyện ngắn), Tiếng chim vườn cũ (truyện dài), Qua cầu gió bay (truyện dài), Ðường một chiều (truyện dài). Bảy năm sống dưới chế độ cộng sản, tôi viết xong bộ trường thiên Sông Côn Mùa Lũ nhưng dĩ nhiên là không in được. Vượt biên, tôi để bản thảo lại cho nhà tôi giữ. Năm 1990, nhà tôi sang Hoa Kỳ trong chương trình đoàn tụ gia đình, đem được bản thảo theo. Nhờ thế, ngoài những tác phẩm Ngựa nản chân bon (truyện ngắn), Xuôi dòng (truyện ngắn), bộ trường thiên Mùa biển động tôi xuất bản ở hải ngoại, tôi có them được bộ trường thiên Sông Côn mùa lũ nhà An Tiêm xuất bản những năm 1991 và 1992.

NMT: Ở Việt Nam, anh là nhà giáo, nhà văn. ở đây, anh làm báo, viết văn, và làm graphic designer cho công ty GTE. Có liên quan thế nào giữa những nghề nghiệp ấy? Chúng hỗ tương nhau hay chống chõi nhau?

NMG: Dĩ nhiên là hỗ tương, vì không có một nghề để nuôi thân thì làm sao yên tâm để nghĩ chuyện viết lách. Tôi đủ óc thực tiễn để hiểu rằng không thể sống được bằng ngòi bút, nói cho đúng hơn, sống được bằng văn chương. Nhiều người viết văn đã sống được bằng ngòi bút, nhưng chỉ một số rất hiếm hoi sống bằng văn chương. Số còn lại sống bằng nghề báo.

NMT: Anh viết tác phẩm đầu tay trong trường hợp nào? Có kỷ niệm nào đáng kể?

NMG: Tác phẩm đầu tay của tôi không phải là tiểu thuyết, mà là một tập tiểu luận về truyện chưởng Kim Dung, in năm 1972. Tôi rất mê Kim Dung. Ngoài Dostoievsky, Kim Dung là nhà văn ngoại quốc có nhiều ảnh hưởng đến cách suy nghĩ của tôi. Hồi đó, tôi đang dạy học tại trường trung học Cường Ðễ. Trong số đồng nghiệp, có anh Châu văn Thuận là một thành viên của tạp chí Ý Thức. Qua Châu văn Thuận, tôi quen với Lữ Quỳnh một thành viên Ý Thức khác. Các anh ấy xin bài cho Ý Thức. Tôi viết bài đầu tiên về Kim Dung, được nhiều người mê Kim Dung thích lắm. Có khích lệ, tôi viết một bài khác gửi cho Bách Khoa và gửi một bản cho nhà văn Nguyễn Hiến Lê. Ông Lê mang bài đó đến Bách Khoa bảo đáng đăng. Tôi có duyên nợ với Bách Khoa từ đó. Tập tiểu luận mỏng in ấn lem nhem nhưng lại là tác phẩm mang đến cho tôi nhiều vui buồn nhất. Vui vì là đứa con đầu lòng. Vì được nhiều bạn đọc ghiền Kim Dung tán thưởng. Buồn, vì sau 1975 phong trào mê Kim Dung lan truyền nhanh tới bộ đội, cán bộ, và cả giới viết lách miền Bắc. Chính quyền tìm biện pháp ngăn chặn. Họ lục xem trong Nam những ai đã viết về Kim Dung. Cuốn Nỗi băn khoăn của Kim Dung của tôi và cuốn Vô Kỵ giữa chúng ta của Ðỗ Long Vân trở thành cái bia oanh kích tự do. Ðủ thứ tội lỗi, nào mập mờ giữa chính và tà, nào tung hỏa mù để biện minh cho kẻ cướp nước… Mỗi lần nghe loa phóng thanh phường đọc ra rả những lời kết tội nặng nề với tên tác giả rõ ràng, tôi lạnh gáy, hối hận tại sao thủa ban đầu mình không chọn một bút hiệu nào đó mà lại lấy tên thật.

NMT: Có người nói tác phẩm đầu tay thường có nhiều chất cảm và có hồn tuy kỹ thuật chưa cao. Còn những tác phẩm sau, thường có nhiều tiến bộ về kỹ thuật nhưng chất cảm và hồn giảm đi. Theo anh, vấn đề này nên phân tích thế nào?

NMG: Tay nghề cầm bút ngày càng cao là chuyện bình thường. Còn xúc cảm, nhiệt tâm tác giả gửi gấm trong tác phẩm ngày càng giảm đi, thì theo tôi nghĩ, không phải ai cũng như ai. Cái mất đi theo tuổi tác là sự hồn nhiên, chứ không phải xúc cảm, nhiệt tâm. Thông thường, một người cầm bút lúc khởi nghiệp viết về mình, cho mình, nên dễ đạt được ước muốn Hàn Mặc Tử từng ước muốn: Tôi muốn hồn trào ra đầu ngọn bút. Mỗi lời thơ đều dính não cân ta. Nhưng viết về mình một thời gian rồi cũng cạn, tác phẩm sau là bản sao của tác phẩm trước. Nhà văn đối diện với một thử thách lớn, từ viết về mình chuyển qua viết về người. Những ai không qua được thử thách này, giá trị tác phẩm của họ chứng minh được điều anh vừa đưa ra.

NMT: Cầm bút, anh có mục đích nào không? Như phục vụ nhân sinh, quốc gia, dân tộc… Hay chỉ vì mình thích và muốn làm được những điều mình ưa?

NMG: Khi mê gái không ai có thì giờ ngồi tẩn mẩn phân tích người mình mê đẹp ở chỗ nào. Chỉ có hai hạng người đủ bình tĩnh suy nghĩ về người con gái đó: người ngoài, và chính anh chàng mê gái khi anh bắt đầu hết mê. Mê văn chương, mê viết lách cũng như mê gái mà thôi. Khi nghe một nhà văn ba hoa về sứ mệnh này sứ mệnh nọ, tôi bắt đầu nghi ngờ lòng mê văn chương của anh ta. Một là anh ta mê những thứ khác hơn văn chương, nên dùng văn chương như một công cụ để làm chuyện khác. Anh ta hết là nhà văn, hay phân biệt chi li như Sartre, anh ta là écrivant, không phải là écrivain. Hai là anh ta biết rất rõ ngòi bút của mình đã sa sút, nên vội tìm một cái mộc che thân, giống y chang anh chàng mê gái muốn quất ngựa truy phong bèn tìm hiểu xem người đẹp ấy có thực đẹp hay không, giữa sắc đẹp và đức hạnh nên chọn bên nào.

NMT: Hình như anh ác cảm với những “người dùng văn”, những écrivant.

NMG: Không phải thế. Họ dùng văn để làm những chuyện ích quốc lợi dân, hay lắm chứ. Nhưng xin phân biệt cho rõ: nếu dùng văn để bảo vệ đạo đức, họ phải sống đạo đức và họ đáng được tuyên dương như một nhà đạo đức, không nên tuyên dương như một nhà văn. Trường hợp dễ gặp hơn là dùng văn chương để phục vụ chính trị. Một nhà văn nhỏ tự nhiên trở thành vĩ đại khi giương cờ giăng khẩu hiệu lên văn chương của mình. Ai chê anh ta nhỏ, anh ta trở cán cờ đập vào mặt liền. Vâng, anh ta có thể trở thành anh hùng dân tộc, trở thành tổng bí thư, tổng thống. Nhưng nói gì thì nói, anh ta vẫn cứ là một nhà văn nhỏ tí.

NMT: Bây giờ tôi lại thấy hình như anh không ưa những người làm chính trị bằng những người viết văn. Liệu trong anh có gì mâu thuẫn không, khi những tác phẩm anh viết phần lớn lấy khung cảnh lịch sử, chính trị, như hai bộ trường thiên Mùa Biển Ðộng và Sông Côn Mùa Lũ?

NMG: Anh nói đúng. Từ thâm tâm, tôi không ưa những người làm chính trị.

NMT: Vì sao?

NMG: Thích hay không thích cái này cái nọ là chuyện trực tiếp, tức thời, ảnh hưởng đến cách lựa chọn và quyết định của mọi người. Biện hộ cho những cái mình thích hay không thích là chuyện về sau. Người ta không thích màu đỏ chẳng hạn, nên không bao giờ mua xe màu đó. Có ai hỏi, người đó mới tìm lý lẽ giải thích: vì màu đỏ chói quá, màu đó giống với màu máu, màu đó là màu cờ của phe cộng sản v.v… Trong đời, tôi cũng có nhiều ước mơ: hồi lên năm nằm bệnh viện Huế thấy hiến binh Nhật cưỡi xe mô tô phóng nhanh trên đường trước bệnh viện, tôi mơ làm người hiến binh. Học tiểu học thầy cô dẫn đi dự các lễ lạc, thấp người chen chúc mãi vẫn không thấy cảnh lễ lạc phía trước, liền mơ làm anh phó nhòm được quyền chạy khắp nơi chụp hình. Lớn hơn mơ làm Xuân Diệu để có thể làm thơ tình gửi những người đẹp… Ðại khái các giấc mơ của tôi đều thấp lè tè như thế, không có giấc mơ nào sang cả, hào nhoáng quyền lực. Có thể vì vậy mà tôi chọn nghề giáo. Thi thố quyền lực với những trẻ kém tuổi hơn mình, học thức thua mình, coi bộ dễ dàng hơn thi thố tranh giành quyền lực với người lớn, tức là làm chính trị. Cứ suy nghĩ theo cái dòng đó thì tôi mê viết lách cũng phải. Không thể ứng xử thoải mái với thực tế và những người chung quanh, tôi tìm thoải mái trong thế giới tưởng tượng. Tôi “làm chính trị” trong sự an toàn, trong thế giới của riêng tôi. Nhưng đó chỉ là những lời biện minh tới sau.

NMT: Trở lại hai bộ trường thiên Mùa Biển Ðộng và Sông Côn Mùa Lũ. Nhiều người định nghĩa “trường thiên tiểu thuyết” theo những cách khác nhau: như trường thiên tiểu thuyết phải trải dài nhiều thời kỳ với toàn bộ không gian thời gian; như phải có nhiều tuyến nhân vật để thể hiện toàn bộ đời sống một thời kỳ… Vậy theo anh, phải nghĩ thế nào về trường thiên tiểu thuyết? Có thể mang nối nhiều cuốn truyện dài thành một bộ trường thiên hay không?

NMG: Bàn về thể loại văn học thì không bao giờ xong, vì mỗi người quan niệm một khác. Vả lại việc đó đã có các nhà nghiên cứu ở các đại học lo. ở đây, tôi chỉ nói tới kinh nghiệm riêng của mình. Khi viết bộ trường thiên Sông Côn Mùa Lũ, khuôn mẫu tôi nghĩ tới luôn, là bộ Chiến tranh và Hòa bình của Leb Tolstoi. Ðiều đó dễ hiểu, vì tôi cũng muốn tái dựng lại một giai đoạn lịch sử đầy biến động của Việt Nam hồi cuối thế kỷ 18, và biến động là khung cảnh thích hợp nhất để con người tỏ lộ hết tất cả cái tốt cái xấu của mình. Tôi thích quan sát và suy nghĩ về cách ứng xử của con người trong những hoàn cảnh khác nhau, và có hoàn cảnh nào thấy chân tướng con người rõ hơn thời chiến tranh, thời có những cuộc cách mạng. Tôi mường tượng thấy một bộ trường thiên phải là một bức bích họa lớn của một thời đại, do đó phải trải dài trên một không gian và thời gian rộng, bao trùm lên số phận của nhiều người. Sông Côn Mùa Lũ là một thử nghiệm ban đầu của tôi. Qua Mùa Biển Ðộng, quen tay, tôi vẫn giữ lối dàn dựng ấy.

NMT: Mùa Biển Ðộng có bao nhiêu phần trăm hư cấu và bao nhiêu phần trăm sự thực?

NMG: Một trăm phần trăm hư cấu. Trả lời như vậy, sẽ có một số bạn đọc nghĩ tôi muốn tránh những chuyện bắt bẻ phiền phức của độc giả, chất vấn tại sao sự thực thế này mà lại viết thế kia. Sẵn đây tôi xin kể một chuyện bên lề . Tháng Năm 1995 vừa qua, tôi có về Việt Nam thăm mẹ tôi, và có gặp nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Sài gòn. Dĩ nhiên là anh Tường đã đọc kỹ Mùa Biển Ðộng, nên sau vài câu xã giao, anh trách: “Cậu viết về anh em khác với nhiều cảm tình mà viết về tôi thì xấu quá. Bất công lắm.” Tôi đáp là tôi có viết rõ trong lời cuối của bộ trường thiên, và đáng lẽ anh là nhà văn anh không nên trách tôi như thế. Chúng tôi không có thì giờ tranh luận nhiều hơn. Khi tôi nói “là nhà văn”, có nghĩa là những người cầm bút sáng tác đều biết rất rõ vai trò của óc tưởng tượng trong sáng tạo, và dù có lấy thực tại làm nguyên mẫu thì tác phẩm văn chương vẫn tạo ra một thực tại hoàn toàn khác.

NMT: Ðã có một số phản ứng không đồng ý về cách anh mô tả người lính Việt Nam Cộng hòa trong truyện. Những phản ứng ấy có ảnh hưởng gì đến cá nhân anh và ngòi bút của anh lúc ấy?

NMG: Có chứ! Bị công kích dữ dội vì xây dựng nhân vật Lãng ở tập 1, tôi hơi ngỡ ngàng, nghĩ chuyện không có gì mà sao ầm ĩ thế! Nhất là trong cái ầm ĩ chung có cả những lời dao to búa lớn của những người chưa từng đọc sách, và cả những người cầm bút đã có chút tiếng tăm như Nguyên Vũ, Duyên Anh. Dạo đó tôi có viết một bài báo trần tình, bảo rằng truyện còn dài, xin chờ tới lúc bộ trường thiên hoàn thành rồi hãy phê phán. Không ai chịu chờ cả. Họ đã khăng khăng như thế thì tôi cũng khăng khăng viết tiếp theo ý mình, nhờ thế có tập 2, tập 3, tập 4, tập 5. Lại thêm nhờ có ầm ĩ mà sách bán chạy. Hoan hô sự ầm ĩ!

NMT: Ở thời điểm bây giờ, 1995, đọc lại Mùa Biển Ðộng, anh thấy tâm tư của anh, cách suy nghĩ của anh hiện nay so với thời gian viết Mùa Biển Ðộng có khác không? Anh có thấy lối suy nghĩ của anh hồi ấy đã đủ chín chưa?

NMG: Có phải ý của anh Trinh muốn nói là hồi viết Mùa Biển Ðộng tôi chưa chín đủ? Không. Cho tới nay, lối nhìn của tôi về lịch sử hiện đại Việt Nam vẫn không thay đổi.

NMT: Viết lại một thời kỳ đầy xáo trộn của lịch sử Việt Nam có những người cùng trang lứa, có chính anh tham dự, anh có tránh được chủ quan và thiên kiến không? Chữ “chín” tôi vừa hỏi có ý như thế.

NMG: Chủ quan không thể tránh được. Từ chủ quan mà có thiên kiến. Mỗi người chỉ có thể cố gắng khách quan được chừng nào hay chừng nấy mà thôi. Tôi nghĩ chủ quan và khách quan như tử số và mẫu số của một phân số văn chương. Từ xúc động chủ quan trước một hoàn cảnh, nhà văn viết nên tác phẩm. Không có xúc động, không có những thôi thúc nội tâm hoàn toàn riêng tư, người viết không bao giờ viết. Nhưng nếu những điều nhà văn viết ra chỉ là những ghi nhận chủ quan trong một hoàn cảnh hạn hẹp, thì văn chương chỉ có khả năng làm xúc động những người cùng cảnh ngộ mà thôi. Qua khỏi hoàn cảnh riêng biệt đó, tác phẩm trở nên lỗi thời nhanh chóng. Muốn tồn tại lâu dài, văn chương đòi hỏi phải có những mẫu số chung để vượt qua cái riêng tư, cái nhất thời, vượt qua biên giới của chủng tộc, quốc gia. Mẫu số chung ấy, người ta thường gọi là “tính người”, ở đâu cũng có, thời nào cũng vậy. Cho nên mặc dù chính trị là chất kích thích mạnh mẽ, nhưng những nhà văn chỉ chú tâm đến đề tài chính trị thường mau bị thời gian đào thải hơn những nhà văn chú tâm đến nhân sinh nói chung. Cùng là tác phẩm của Nhất Linh, Bướm Trắng sống lâu hơn Ðoạn Tuyệt. Nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam quên bẵng một điều hiển nhiên, là Vương Thúy Kiều không phải là đồng bào của mình.

NMT:Viết Mùa Biển Ðộng, anh có tự xác nhận chỗ đứng của mình ở bên này hay bên kia lằn ranh nào đó hay không? Hay anh chỉ muốn mô tả những người Việt Nam trong một thời kỳ đặc biệt của lịch sử?

NMG: Do chủ đề, dĩ nhiên tôi viết từ cái nhìn của một người Miền Nam, viết về thân phận của những người Miền Nam trong giai đoạn từ 1963 đến 1981. Bạn đọc Miền Nam dễ thông cảm với tôi hơn những bạn đọc Miền Bắc. Tôi thường tò mò muốn biết những bạn đọc Miền Bắc nghĩ gì sau khi đọc Mùa Biển Ðộng. Một vài ý kiến của độc giả Miền Bắc khiến tôi vui mừng. Họ bảo tôi đã cố gắng công bằng, và nhìn những người bên kia lằn ranh như những con người, không phải là một ý niệm, một con số, hay một tấm bia oanh kích tự do.

NMT: Hình như trong Mùa Biển Ðộng nhân vật nào lưu manh thì thường có số phận tốt hơn những người thật thà lương thiện?

NMG: Thế à! Tôi chưa nhận ra điều đó. Truyện của tôi ít có những tên lưu manh đúng nghĩa, chỉ có những tay cơ hội. Mà những tay cơ hội thì, như anh thấy, thời nào lúc nào cũng thành công trên đời. Riêng những người thật thà lương thiện thì thường thua thiệt trong thời loạn. Thời gian của Mùa Biển Ðộng là thời loạn.

NMT: Sông Côn Mùa Lũ cũng là bộ trường thiên đồ sộ của anh. Anh viết bộ này hồi còn ở trong nước, như anh cho biết từ đầu. Xin anh cho biết nhiều chi tiết hơn về chuyện này.

NMG: Xin đọc cho anh nghe trang ba trong tập bản thảo Sông Côn Mùa Lũ, ghi “Những dấu mốc” thực hiện tác phẩm này. Gần Tết 1978: Quán cà phê Duy Tân, với Nguyễn Thành Hải: Chiều đẹp. Ðêm xuống dần. Ánh đèn thủy ngân rọi lên màn sương lãng đãng dưới hai hàng cây cao đường Phan Ðình Phùng. Trong một lúc cao hứng, hứa với Hải sẽ viết một cuốn tiểu thuyết thật dài về tâm trạng trí thức thời loạn. Chọn thời Tây sơn của các nho sĩ thời xưa.

24-5.1978: Bắt đầu viết chương 1 của bản phác thảo.
1-9-1980: Viết xong chương cuối của Phần 6.
1-3-1981: Viết xong chương cuối Phần Kết từ.
6-8-1981: Sửa lại cấu trúc và xem lại sử liệu.

Như vậy có thể nói tôi hoàn tất bộ trường thiên này trong vòng bốn năm.

NMT: Chắc anh phải ngồi viết ròng rã hằng ngày?

NMG: Không đâu! Như tôi có viết trong trang “ghi ơn” nhà tôi ở cuối bộ truyện, đó là thời kỳ đen tối nhất gian nan nhất của đời tôi: bốn năm, hai năm lang thang thất nghiệp, hai năm làm công trong tổ hợp mì sợi Dân Sinh dưới Phú Lâm, hai lần ở tù. Nhưng quyết tâm viết bộ truyện này của tôi rất cao, tôi coi đó như một món nợ phải trả cho quê hương Bình Ðịnh của tôi. Thời khoá biểu hàng ngày của thời đó như sau: sáng 6 giờ dậy đạp xe xuống Phú Lâm làm mì sợi, làm việc từ 8 đến 12 giờ trưa. Trong hai giờ nghỉ trưa: nấu cơm, ăn cơm và viết. Làm việc trở lại từ 2 đến 6 giờ chiều. Trên đường về lại Thị Nghè, chở mì đi bán hoặc giao cho người đặt mua. ăn cơm chiều. Mua một tách cà phê dỏm đầu ngõ. Viết từ 9 giờ tối đến 12 giờ khuya.

NMT: Anh có sử dụng những pho chính sử hoặc dã sử để làm tài liệu?

NMG: Có chứ. Tôi có ghi hết trong phần Thư mục ở cuối bộ truyện. Tuy nhiên, những tài liệu giúp cho tôi nhiều nhất là cuốn Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô gia văn phái, Lịch sử Nội chiến của Tạ Chí Ðại Trường, Phủ biên Tạp lục của Lê Quí Ðôn và các bài viết của các giáo sĩ Thiên chúa đăng trong BEFEO. Về dã sử, tôi thu thập những truyền thuyết tại địa phương Tây Sơn, Bình Ðịnh.

NMT: Trong SCML, ngoài một số nhân vật lịch sử còn có những nhân vật vô danh của đời thường do anh tạo ra. Anh muốn xây dựng những biểu tượng nào qua những nhân vật tầm thường ấy?

NMG: Những nhân vật vô danh (theo nghĩa không phải là những nhân vật lịch sử) trong SCML là những nhân vật chính. Họ là những đứa con trong gia đình ông giáo Hiến, thầy của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Qua những nhân vật này, tôi muốn trình bày lịch sử đã ảnh hưởng thế nào đối với đám quần chúng thấp cổ bé miệng thời Tây Sơn. Mỗi người con của ông giáo có một cách tham dự lịch sử khác nhau: Kiên như một người thụ động nhẫn nại chịu đựng lịch sử, cuối đời tìm được lối thoát bằng tôn giáo; Chinh tham dự như một người say mê bạo lực và chết vì bạo lực; Lãng tham dự như một trí thức nghệ sĩ cố sống trung thực và bị đào thải vì long trung thực; An là tổng hợp kỳ diệu của tất cả mọi thái độ, đại biểu cho vai trò người phụ nữ trong thời loạn: lãng mạn mà thực tiễn, sức chịu đựng bền bĩ, tháo vát sáng suốt trước hoạn nạn.

NMT: SCML bắt đầu bằng một cuộc chạy trốn và kết thúc bằng dấu hiệu trưởng thành của đứa cháu ngoại. Những người trong gia đình ông giáo cùng chịu những thăng trầm của lịch sử, , và đều có những kết cục không may. Có phải đó là dụng ý của anh không?

NMG: Tôi cứ viết tự nhiên như thế chứ không có dụng ý nào cả. Có người cho tôi bi quan với cuộc đời. Có thể lắm. Tôi dễ xúc động trước những số phận không may hơn là những thành công vinh quang. Cũng phải thôi! Những kẻ thành công đã có cả một guồng máy quyền lực khổng lồ suy tôn họ, văn
chương có nhảy vào tuyên dương cũng bằng thừa.

NMT: Anh cũng có tuyên dương ba anh em nhà Tây Sơn đấy chứ! Nguyễn Huệ trong SCML, theo tôi nghĩ, lãng mạn và trí tuệ hơn Nguyễn Huệ có thật ngoài đời.

NMG: Tôi không đồng ý với anh. Nguyễn Huệ sinh trưởng ở nơi xó núi, nhưng ông là một người thông tuệ khác thường. Chẳng những ông theo kịp lịch sử, ông còn biết vượt lên trên để tạo ra lịch sử. Những người như vậy hiếm có trong lịch sử Việt Nam. Trí thức lớn của Bắc hà cỡ như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Huy ích… mà phải khuất phục trước Nguyễn Huệ, không phải chỉ do sức mạnh quyền lực đâu. Vì thế, để giải thích do đâu Nguyễn Huệ có tầm trí tuệ cao như thế, tôi đã nghĩ ra những bài giảng của ông giáo Hiến trong tập 1. Chính ông giáo Hiến đã truyền cho người học trò thông minh khả năng nghi ngờ những trật tự có sẵn (như bài giảng về Bài Tựa Truyện Du hiệp trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên) và tham vọng quyền lực. Một người đồng thời như Nguyễn Du mà cũng lặng lẽ chiêm ngưỡng Nguyễn Huệ dù cuộc đời khốn đốn hoạn nạn vì Tây sơn. Bằng chứng đâu? Cách Nguyễn Du tả Từ Hải đó.

NMT: Sẵn tiện xin hỏi anh: Nguyễn Huy Thiệp, Trần Vũ tả Nguyễn Huệ một cách hoàn toàn khác anh: dâm dật, tàn nhẫn, độc ác… Anh nghĩ thế nào?

NMG: Mỗi người có quyền nhìn nhân vật của mình theo cách mình cho là đúng. Nguyễn Huệ trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, Trần Vũ là nhân vật tiểu thuyết, không phải là nhân vật lịch sử. Dĩ nhiên tôi không thích cách nhìn đó.

NMT: Như anh nói, quê hương anh và quê hương ba anh em Tây Sơn chỉ cách nhau một con sông: sông Côn. Anh cũng vừa nói là viết SCML, anh muốn trả nợ quê hương. Tinh thần địa phương có làm cho anh thiếu khách quan khi viết về các nhân vật lịch sử hay không? Chẳng hạn mọi người đều cho Nguyễn Nhạc là một tay gian hùng. Anh viết khác.

NMG: Gian hùng, anh nói quá lời. Mà lịch sử cũng bất công với Nguyễn Nhạc. Anh nghĩ xem, một ông tướng vô danh nào đó của Gia Long cũng có tên đường. Nhà tôi ở Thị Nghè nằm trên con đường trước đây mang tên Dương Công Trừng, tên một tướng của vua Gia long. Công trạng của ông là gì, không ai biết. Tôi cũng không biết. Nguyễn Nhạc thì ai cũng biết. Không có con đường nào, dù hẻo lánh lầy lội nhất đi nữa, được mang tên Nguyễn Nhạc. Ông có tội gì với dân tộc? Không có Nguyễn Nhạc, thì không có phong trào Tây Sơn. Ông hoàn tất xuất sắc vai trò người lãnh đạo một cuộc khởi loạn: ông dùng bọn trộm cướp vô lại mà không để cho chúng cuốn theo để thành một tên cướp lớn, ông dùng những trí thức nho sĩ nặng óc sách vở mà không bị họ loè bằng chữ nghĩa, ông đi dây tài tình giữa các thế lực để giữ quyền bính, Trịnh phía Bắc, Nguyễn phía Nam. Ông chỉ có một cái tội: là có một người em quá xuất sắc.

NMT: Nhưng anh cũng tô điểm cho Nguyễn Lữ quá nhiều. Theo lịch sử, Nguyễn Lữ chỉ là một người bất tài, giao việc nào cũng hỏng. Trong SCML, anh biến Nguyễn Lữ thành một người thâm trầm, ưa suy tư về những chuyện lớn lao, siêu hình.

NMG: Ðó là Nguyễn Lữ trong trí tưởng tượng của tôi. Và sở dĩ tôi tưởng tượng như thế, là vì ở quê tôi, người ta cứ gọi ông là “Thầy Tư Lữ”. Sao người quê tôi gọi Nguyễn Lữ là “thầy”? Từ thắc mắc đó, tôi xây dựng nhân vật này như một người có khuynh hướng thần bí. Ðiều đó giúp tôi giải thích sự vụng về của Nguyễn Lữ trong hành động thực tế.

NMT: Cả hai bộ trường thiên tiểu thuyết anh viết đều lấy chiến tranh làm khung cảnh. Anh thích viết về chiến tranh?

NMG: Tôi sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, thích hay không thích, tôi khó lòng thoát khỏi nó. Anh thấy đấy, trên giấy tờ chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt từ hai mươi năm nay. Nhưng trong từng người chúng ta, chiến tranh chưa hề chấm dứt. Chúng ta vẫn viết về chiến tranh, vẫn suy nghĩ như một người sống trong thời chiến. Vết hằn của chiến tranh ăn sâu vào tâm hồn chúng ta, không cách nào gột rửa, tẩy xóa được. Chúng ta đã đánh mất cái hồn nhiên của người sống trong thời bình. Hai bộ trường thiên của tôi là hai cuộc chiến tranh lớn cách nhau hai thế kỷ, nhưng cùng một xuất xứ. Ðó là những xúc động, suy nghĩ của tôi về thân phận con người trong chiến tranh, nhất là những người trí thức, nghệ sĩ. Ngoài ra còn có một lý do khác thuộc vấn đề kỹ thuật viết truyện. Trường thiên tiểu thuyết là một bức tranh toàn cảnh về một xã hội trong một thời gian dài, do đó đòi hỏi nhiều tuyến nhân vật và mỗi nhân vật phải có một nét đặc thù. Trách nhiệm mô tả, xếp đặt nhiều nhân vật trong nhiều hoàn cảnh khác nhau bắt buộc tác giả phải chọn một bối cảnh thích hợp cho thể loại trường thiên. Theo tôi, bối cảnh thích hợp nhất là chiến tranh, thời loạn, vì trong bối cảnh đó, con người mới bộc lộ tất cả khả năng và chân tướng của mình. Ði tìm thời gian đã mất của Marcel Proust là một bộ tiểu thuyết đồ sộ đi sâu vào những ngóc ngách chi li của nội tâm con người, nhưng không phải là trường thiên tiểu thuyết. Nên chọn một từ khác thích hợp hơn: trường giang tiểu thuyết chăng? Nhưng thôi, việc đó để cho các nhà nghiên cứu văn học bàn luận.

NMT: Bây giờ xin chuyển qua thể loại khác: truyện ngắn. Cho đến nay, anh đã cho xuất bản được ba tập truyện ngắn: Bão Rớt, Ngựa Nản Chân Bon và Xuôi dòng. Trong ba tập truyện đó, anh thích tập nào nhất?

NMG: Nếu trả lời theo lối các nhà ngoại giao, tôi sẽ bảo tập nào tôi cũng thích, hoặc không thích tập nào cả. Thành thực mà nói, tôi thích tập Ngựa Nản Chân Bon nhất. Những truyện ngắn trong tập này tôi đều viết ở đảo tị nạn Kuku Nam Dương, trong vòng một tháng, đầu năm 1982. Trong đời viết văn của tôi, chưa có thời kỳ nào tôi viết hăng như thời ấy. Sống ở một hòn đảo nhỏ giữa biển xanh, hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, tôi say sưa viết truyện. Mỗi ngày một truyện ngắn. Loại dài như truyện Ngựa Nản Chân Bon, viết chỉ hai ngày là xong. Viết như một thôi thúc giải tỏa những u uất chất chứa lâu ngày, chứ lúc đó còn mù tịt về tình hình xuất bản ở hải ngoại, không hề hy vọng viết để in ra sách. Nhờ thế cả tập truyện nói được trung thực cái “tôi” của tôi lúc ấy. Không bao giờ tôi có được một bối cảnh toàn hảo như vậy để viết truyện, không bao giờ!

NMT: Có phải những truyện ngắn trong Ngựa Nản Chân Bon mang nhiều thông điệp đặc biệt của làn sóng thuyền nhân tị nạn cộng sản thời đó, những thông điệp khác hẳn lớp di tản trước đó và lớp di dân sau đó?

NMG: Thú thật với anh tôi rất sợ hai chữ “thông điệp”. Thôi thì cứ tạm hiểu như “những điều gửi gắm” đi. Vâng, tôi muốn ghi lại, muốn gửi gắm những xúc động nóng hổi, những tâm sự không thể nói ra lời của thời kỳ bảy năm sống dưới chế độ cộng sản. Như lời nhắn của người đã ra đi gửi cho những người ở lại. Tôi không viết cho những người tôi sắp gặp ở hải ngoại, vì như tôi đã nói, ở đảo tôi không biết tí gì về sinh hoạt chữ nghĩa báo chí của đồng bào bên Mỹ, bên Pháp, bên Canada, bên Úc. Tôi không hề nghĩ về họ khi viết các truyện ngắn bên đảo.

NMT: Anh muốn nhắn gì cho những người ở lại?

NMG: Những lời chia tay đứt ruột, cho mẹ tôi, cho vợ con tôi, cho anh em bạn bè tôi. Tương lai trước mặt còn rất mù mờ, nỗi mong hằng ngày của trên một trăm người trên đảo là mong con tàu Seasweep hiện ra ở chân trời để chở chúng tôi qua trung tâm tị nạn Galang, ở đó người ta mới lập hồ sơ, phỏng vấn, và làm thủ tục cho đi định cư ở một nước thứ ba nào đó. Vì mù mờ nên chúng tôi chưa biết lo, chưa biết sợ tương lai. Quê hương, quá khứ thì gần gũi, có cảm tưởng như mới hôm qua. Những khổ nhục, thương đau hãy còn tươi roi rói. Lòng thương yêu, trong xa cách (nhất là thời đó chúng tôi vẫn nghĩ cuộc chia ly này là vĩnh viễn, xa cách này ngàn trùng), càng đậm đà hơn. Tôi viết những truyện ngắn ấy trong một nỗi nhớ thương ngút ngàn.

NMT: Tôi thấy các mẫu nhân vật trong tập truyện ấy có rất nhiều chất người. Cái chất người ấy ở đâu cũng thế hay thay đổi theo hoàn cảnh, môi trường?

NMG: Có thay đổi theo hoàn cảnh. Anh Trinh cũng là thuyền nhân, chắc anh đã thấy cách ứng xử ăn nói của người ta thay đổi theo môi trường sống như thế nào. Lạ lắm. Cũng con người ấy, khi chưa lên thuyền vượt biển, họ cư xử nói năng như một công dân gương mẫu của chế độ mới. Trong cơn nguy hiểm trước sóng to gió lớn, họ để lộ những tư cách hèn yếu bất ngờ. Rồi cũng con người ấy khi lên bờ lại trở thành một người hoàn toàn khác, khác từ cách đi đứng cho tới những lời phát biểu rực lửa trước micro. Bi quan thì cho đó là bản chất tráo trở của con người. Tôi lạc quan hơn, cho rằng con người, nói chung, nếu không đáng yêu, thì cũng đáng thương.

NMT: Có người nói tình yêu trong các truyện ngắn của anh có nhiều tính ước lệ, hơi khô khan và đứng đắn quá. Anh nghĩ gì về nhận xét trên?

NMG: Tôi cam đoan với anh là không có tình yêu nào khô khan đứng đắn cả. Nếu có, chỉ do lỗi của người viết về tình yêu. Từ bản tính, tôi đã vụng về trong cách trang trải tấm lòng của mình cho người khác thấy. Tôi làm quen rất dở, và thường không tạo được cảm tình đối với người khác ngay buổi sơ giao. Có thể bản tính ấy ảnh hưởng đến cách viết truyện của tôi.

NMT: Có thể vì anh ít đề cập đến tình dục trong các truyện ngắn. Có phải anh né tránh vấn đề ấy vì cho đó là điều cấm kỵ?

NMG: Tôi không cho tình dục là điều cấm kỵ trong văn chương. Nhiều lúc tình dục là cao điểm của tình yêu, là bằng chứng của một lòng tin cậy trọn vẹn, một sự hiến dâng trọn vẹn. Khi Nguyễn Du viết:

Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về

rồi chính nhà thơ lại cho Thúy Kiều hối hận trước đây đã không trao than cho Kim Trọng:

Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

ông đã phân biệt rất rõ một vụ hiếp dâm và tình-yêu-dục-tính. Viết về tình dục rất khó, viết giỏi thì thành văn chương erotic, viết vụng một chút lại thành porno. Tôi rất phục những nhà văn viết về tình dục rất văn chương như D.H. Lawrence, Alberto Moravia, Lê Xuyên, Kiệt Tấn. Họ vinh danh tình dục. Tôi tự biết không có tài trên phương diện này, nên khôn ngoan tránh đi đấy thôi.

NMT: Khi viết tiểu thuyết, anh hay dùng ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba? Và anh thích ở vị trí nào nhất?

NMG: Ngôi thứ ba. Tôi thích viết ở ngôi thứ nhất hơn, vì tiện hơn. Ðã xưng tôi rồi, thì khỏi phải phân thân lung tung, khi phải giả làm em bé thơ ngây, khi phải đóng bộ ông già sắp xuống lỗ. Nhưng ngôi thứ nhất có những cái ràng buộc, không thích hợp với truyện dài, càng không thể thích hợp với trường thiên tiểu thuyết.

NMT: Khi viết truyện, anh có cảm giác mình là Thượng đế có quyền xếp đặt số phận nhân vật của mình không? Và anh muốn loại nhân vật nào phải khổ sở bất hạnh?

NMG: Tôi đã nói tôi là người thích ứng vụng về với thực tế nên tạo ra một thế giới tưởng tượng để sống thoải mái trong đó, nếu anh muốn bảo sự sang tạo ấy là công việc của Thượng đế, thì vâng, tôi thích làm một chú Thượng đế nhỏ. Nhưng thích là một chuyện, còn làm được không lại là chuyện khác. Theo kinh nghiệm, tác giả chỉ làm Thượng đế được trong giai đoạn đầu, tức là giai đoạn ông ta mon men tìm cách nặn ra nhân vật. Ðến khi nhân vật có một vóc dáng, một nhân cách định hình rồi, thì nhân vật liền “giành quyền tự quyết”. Có những lúc nhân vật lôi tác giả đi. Tác giả cho nhân vật A gặp nhân vật B và chưa nghĩ họ nên nói với nhau những gì. Hai nhân vật gặp nhau trên bản thảo, và họ ăn nói huyên thiên vượt ngoài dự định của tác giả. Cho nên bảo tác giả là bà mẹ của nhân vật thì đúng, còn bảo là Thượng đế, chắc sai rồi.

Tôi không muốn cho ai khổ sở bất hạnh hết, mặc dù hầu hết nhân vật tiểu thuyết của tôi đều khổ sở bất hạnh. Tôi có bi quan lắm không?

NMT: Có phải anh bi quan vì không tìm thấy hạnh phúc trong đời riêng, hay gặp toàn những rủi ro trên đời?

NMG: Không phải thế. Tôi gặp rất nhiều may mắn trên đời, đôi lúc gặp hoạn nạn thì như các cụ ngày xưa thường nói “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Nhưng tôi dễ xúc động trước những chuyện bất hạnh, nhất là cái bất hạnh đớn đau của phụ nữ và trẻ em. Văn chương bắt nguồn từ những xúc động riêng tư của người viết, và mỗi người có một điểm nhạy cảm khác nhau.

NMT: Anh là người chủ trương tạp chí Văn Học…

NMG: Xin phép cắt lời anh! Tôi không phải là người duy nhất chủ trương tạp chí Văn Học. Như anh biết, Ban chủ biên Văn Học thay đổi theo nhiều giai đoạn, lý do chính là gánh nặng quản lý và tài chánh của tờ báo, không ai kham nổi một thời gian dài cũng như không ai muốn nó chết, nên người này nản thì có người khác nhảy vào thay thế.

Giai đoạn đầu, từ tháng 5 năm 1985 đến tháng 1 năm 1986 lúc tờ báo có tên là “Văn Học Nghệ Thuật”, ban chủ biên có Võ Phiến, Lê Tất Ðiều, và tôi.

Giai đoạn hai từ tháng 2 năm 1986 đến tháng 11 năm 1989, tôi đứng mũi chịu sào nhưng có nhiều bạn văn tận tình hỗ trợ như Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Nhật Tiến, Phạm Quốc Bảo, Bùi Vĩnh Phúc, Võ Ðình, Ðịnh Nguyên, Vũ Huy Quang, Nguyễn Bá Trạc…

Giai đoạn ba từ tháng 11 năm 1989 đến tháng 6 năm 1992, do hoàn cảnh gia đình tôi tạm nghỉ, ban chủ biên gồm các anh Hoàng Khởi Phong, Trịnh Y Thư, Cao Xuân Huy, Nguyễn Ðức Lập, Khánh Trường. Thời gian này trùng hợp với nhiều biến chuyển chính trị trên thế giới, và đời sống riêng của các anh trong Ban biên tập Văn Học cũng có nhiều xáo trộn. Khánh Trường không đồng quan điểm với Cao Xuân Huy và Nguyễn Ðức Lập, tách riêng làm tờ “Hợp Lưu”. Một thời kỳ Hoàng Khởi Phong đi tìm việc và sinh sống ở San Jose, Houston… công việc thật sự của tờ báo dồn cả vào hai anh Trịnh Y Thư và Cao Xuân Huy.

Giai đoạn bốn từ tháng 7 năm 1992 đến tháng 10 năm 1994, tôi trở lại với Văn Học, phụ anh Trịnh Y Thư và Cao Xuân Huy lo việc bài vở. Phải nhận là trong hơn hai năm gian nan này, Trịnh Y Thư là kẻ đứng mũi chịu sào lèo lái Văn Học như tôi trong thời kỳ thứ nhì.

Giai đoạn năm
từ tháng 11 năm 1994 đến nay thì Ban chủ biên gồm các anh Châu văn Thọ giám đốc nhà xuất bản Thanh Văn, anh Nguyễn Xuân Hoàng, anh Mai Kim Ngọc, anh Thạch Hãn và tôi. Như anh thấy đấy, so với những tạp chí văn chương khác như Văn, Làng Văn… trước sau ban chủ biên không thay đổi, Văn Học long đong hơn nhiều .

NMT: Có người cho rằng những tạp chí văn học là bề mặt và cái nôi của văn chương. Theo anh, điều ấy đúng không?

NMG: Sự thực là thế tuy mới nghe có vẻ như người trong làng tự vẽ mặt vẽ mày cho nhau. Phương tiện truyền thông ngày nay tiến bộ khủng khiếp, nên như anh thấy, ai cũng có thể ra báo được cả. Gõ vào keyboard một chặp, một bài viết thành hình. Ðưa cho nhà in một đêm, hôm sau bài viết đã được phổ biến. Nếu là một bài viết nổ, ngay lập tức bài đó được gửi fax đi khắp nơi. Ðã qua rồi, cái thời do in ấn khó khăn mà chữ viết là ưu quyền của một số người.

So với sức phổ biến và ảnh hưởng tức thời đến người đọc, các tạp chí văn chương yếu thế thấy rõ. Một bài thơ, một truyện ngắn đăng trên các báo biếu hoặc báo phổ thông ăn khách thường có tầm phổ biến rộng hơn đăng trên một tạp chí văn chương.

Nhưng cũng có một sự thực khác, là một truyện ngắn xuất hiện trên tạp chí văn chương được người đọc thưởng thức một cách “văn chương” hơn, nghĩa là đòi hỏi tác giả nhiều hơn. Tôi có một kinh nghiệm về chuyện này: Những truyện ngắn độc đáo của Thế Giang xuất hiện lần đầu trên tờ Diễn đàn ở Paris, sau đó tờ Người Việt ở California đăng lại. Ðọc truyện Thế Giang trên Người Việt, tôi thích quá, xin đăng lại trên Văn Học cho văn giới biết. Quả nhiên sau đó, người trong giới cầm bút xôn xao hỏi nhau Thế Giang là ai, và năm sau anh qua California chơi, Thế Giang được bạn văn đón tiếp nồng hậu dù chưa hề gặp nhau.

Trên báo loại phổ thông, văn chương chỉ là đồ nguội dự trử, có cũng được mà nếu cần cắt đi để đăng tin nóng và quảng cáo cũng không sao. Trên tạp chí văn chương, nó là đồ nóng. Cả người viết lẫn người đọc cùng trân trọng những sáng tác trên tạp chí văn chương, nên sự đánh giá chính xác hơn. Trên các tờ báo phổ thông phổ biến rộng rãi như Văn Nghệ Tiền Phong, Phụ Nữ Diễn Ðàn cũng có những truyện ngắn , bài thơ giá trị. Nhưng nếu cần tìm hiểu văn chương hải ngoại, chắc ít ai bỏ công đọc hết những sáng tác trên các báo ấy. Trước 1975, văn học Miền Nam phản ảnh trên những diễn đàn như Sáng Tạo, Văn, Bách Khoa, Thời Tập… chứ không phản ảnh trên Sài gòn Mới, Chính Luận… Các nhà phê bình vẫn hay chia nhóm giới cầm bút bằng cách căn cứ vào những diễn đàn họ thường cộng tác. Nhóm Sáng Tạo, Nhóm Văn, Nhóm Bách Khoa. Vâng, tạp chí Văn Học trong hơn mười năm qua tự nhiên cũng tạo ra một nhóm, một cái nôi thân ái chung.

NMT: Anh làm việc như thế nào khi chủ trương tạp chí Văn Học? Có cố gắng nào về tài chánh, về thì giờ điều hành cũng như về bài vở in ấn?

NMG: Anh “xâm phạm” vào bí mật nghề nghiệp của tôi rồi đấy! Ðáng lý tôi phải trả lời ỡm ờ để lấy oai, nhưng như thế thì không song phẳng. Chưa có thời kỳ nào trong lịch sử báo chí VIệt Nam mà cách làm báo văn chương ở đây “thủ công nghiệp” đến như thế! Một lần có độc giả ở xa về Little Sài gòn chơi, điện thoại tới ngỏ ý muốn thăm “tòa soạn” và “các anh chị em trong ban biên tập”. Tôi xin lỗi là “tòa soạn” chật hẹp quá, sợ tiếp khách không được. Vì chỉ là cái hộp thư bưu điện. Còn anh chị em trong ban biên tập thì ai nấy chạy lo kiếm sống hết cả, lâu lâu họ tạt tới chỗ ở của người lo bài vở, nói chuyện đôi ba câu, rồi đi. Từ ngày có computer và Internet, các tác giả không cần ghé “toà soạn” nữa, chỉ nằm nhà gửi bài qua đường dây điện thoại. Một độc giả khác nghe giọng nữ của nhà tôi trên số điện thoại Văn Học, hỏi có phải là nữ thư ký của “tòa soạn” hay không.

Một bạn văn từ Việt Nam qua, sau khi đọc những bài báo động về “diễn tiến hòa bình thâm độc của bọn phản động qua đường lối văn chương”, đến thăm tận “hang ổ” của các “toà soạn” Văn, Văn Học, Hợp Lưu liền bật cười lắc đầu, hỏi tiền CIA cấp cho các ông đâu mà các ông để “tòa soạn” thế này. Các tòa soạn ở Việt Nam đâu có thế! Tôi còn nhớ sau 1975 tòa soạn tuần báo “Văn Nghệ Giải Phóng” đặt tại một tòa biệt thự, nhân viên gần 70 người. 70 người với phương tiện của “nhân dân” ra một tờ báo 16 trang hằng tuần. Một hai người của tạp chí văn chương hải ngoại ra một nguyệt san, không tốn của “nhân dân” một xu, chỉ tốn tiền nhà. Làm bảng đối chiếu, chúng ta đóng góp cho tài sản văn chương dân tộc với một chi phí thấp. Ðáng hãnh diện phải không anh?

Làm báo Văn Học những người tham gia chỉ tốn tiền chứ không hưởng được gì cả về tài chánh. Tôi không biết rõ các tạp chí khác ra sao, riêng Văn Học thì suốt mười năm nay, chỉ có lỗ và huề vốn. Chi phí hằng tháng chỉ gồm tiền đánh máy, tiền in, và bưu phí. Không có lương và nhuận bút cho ai cả. Có hồi chúng tôi nghĩ phải xin quảng cáo để bù bớt tiền in, nhưng gặp nhiều trường hợp đau lòng tủi nhục, chúng tôi quyết định không thèm xin nữa. Cũng có người đề nghị “phổ thông hóa” tờ báo cho dễ có độc giả. Ðề nghị ấy bị bác bỏ. Văn Học cứ nhất định là Văn Học, lúc nào rán được thì cứ rán.

Bài vở thì thịnh suy theo từng thời kỳ, theo thịnh suy chung của văn học hải ngoại. Có thời kỳ như từ 1985 đến 1989 anh chị em khắp nơi gửi bài vở ào ào, bài nào cũng hay. Có thời “văn bài như lá mùa thu”.

NMT: Nếu cần nói ngay một vài điều ngắn gọn về tạp chí Văn Học, anh sẽ nói gì?

NMG: Một diễn đàn văn chương mở rộng, trung dung, ai tới cũng được miễn là có đam mê văn chương và không quá khích (dù với bất cứ lý do gì).

NMT: Hình như anh nói cho anh chứ không cho Văn Học.

NMG: Có lẽ thế. Tôi xin thêm: Văn Học hãnh diện được làm nơi khởi nghiệp của đa số các nhà văn nhà thơ hải ngoại, mặc dù họ khác nhau rất xa. Văn Học không trung dung, mở rộng, thì làm sao những cá tính khác nhau ấy cùng gặp nhau trên Văn Học.

NMT: Anh có dự định văn chương nào trong thời gian sắp tới?

NMG: Tôi chỉ viết truyện khi có một thôi thúc mãnh liệt nào đó, dù viết khá dễ dàng và làm việc rất kỷ luật. Có thời gian tôi viết rất đều như từ 1971 đến 1974, từ 1977 đến 1981 (Sông Côn Mùa Lũ), từ 1982 đến 1989 (Mùa Biển Ðộng). Cũng có thời gian tôi không viết gì cả như hiện nay và từ 1975 đến 1977. Tôi không thể giải thích được vì sao có những giai đoạn “đình công” như thế! Dự định văn chương những ngày sắp tới tùy thuộc vào sức thôi thúc nội tâm của tôi mạnh hay yếu. Mơ ước của tôi là có cảm hứng và điều kiện viết được một bộ trường thiên thứ ba về đời sống lưu vong, và một bộ văn học sử về văn học hải ngoại. Xin nói thêm là mơ ước to tát quá, chắc “mộng không thành”!

NMT: Một ngày của nhà văn Nguyễn Mộng Giác?

NMG: Anh hỏi khó làm chi! Có những ngày nhạt nhẽo vô tích sự và có những ngày đầy ắp ý nghĩa. “Một ngày như mọi ngày” hiện nay chia làm hai phần: buổi sáng dành cho văn chương như lo cho tờ Văn Học, viết lách lăng quăng, đàn đúm với bạn bè, làm “thợ vịn” trong việc nội trợ gia đình; buổi chiều và tối đi làm sở Mỹ kiếm sống.

NMT: Anh có điều gì cần nói thêm với độc giả?

NMG: Tôi bắt bạn đọc nghe tôi quá nhiều rồi. Thêm nữa chỉ sợ họ chán. Xin chấm dứt ở đây vậy.

   Số lần đọc: 8555

Tác Phẩm

BÀI KỀ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây