TIẾNG GẦM CỦA CON HÙNG SƯ
Không phải bằng những bài kệ. Không phải bằng những câu quát tháo phẫn nộ nơi cửa miệng các vị thiền sư. Là một cao thủ võ lâm, Tiêu Phong có một lối khai ngộ riêng của con nhà võ. Những vấn nạn khai ngộ của ông liên quan đến võ học, đã thức tỉnh từ một vị tăng Thiếu Lâm cho đến đám đông kiếm khách.
Có thể có nhiều lối khai ngộ khác. Như bài kệ Trí Quang đại sư viết cho Tiêu Phong trước khi viên tịch:
Chúng sinh đều một cuộc
Vạn vật thế bình quân
Thánh hiền hay súc loại
Thảy tới chỗ đồng nhân
Khất đan với Hán nhân
Bất luận giả hay chân
Ân oán cùng vinh nhục
Không hơn đống bụi trần
Đã thức tỉnh đầu óc những kẻ mang nặng thành kiến, oán thù, khiếp sợ trên cái thế chông chênh ở Nhạn môn quan.
Nhưng Tiêu Phong chọn một lối khai ngộ thích hợp với đối tượng: khai ngộ bằng võ học. Điều đó không có gì ngạc nhiên, vì triết lý của sự sống không hạn hẹp trong các suy niệm nghiêm túc về vũ trụ, nhân sinh, mà bàng bạc trong lời chim sớm, nụ cười trẻ thơ, trăng tròn rồi khuyết, bèo hợp rồi tan. Vậy thì tại sao lại không có thể tìm thấy một lẽ sống, một hướng đi trong cách sử một chiêu kiếm, vung một đường quyền, luyện một nội lực. Lấy võ để khai ngộ là đã vượt qua được cái chấp đầu tiên: trọng lý thuyết và các suy niệm thuần lý, xem nhẹ sinh hoạt bình thường của thực tại. Nhờ vậy, cách giác tha của Tiêu Phong đã thức dậy niềm băn khoăn trong mọi người, khiến họ xao xuyến bàng hoàng, đặt ngược vấn đề, tra hỏi về những điều lâu nay tưởng là chân lý vĩnh cửu.
Con hùng sư giữa đám quần hùng đã dùng tiếng gầm của võ công để giác tha. Trước hết, ông thức tỉnh tăm tối cho một kẻ tưởng đã xoá hết hình sắc, ý thức vô thường: nhà sư Huyền Tịch.
“Lúc này, đôi bên cùng sử dụng toàn Thái tổ trường quyền, ngoài việc so bì các võ công cao thấp, không còn chỗ nào để nhiếc móc nhau nữa. Huyền Tịch thấy Huyền Nạn chỉ trong chớp mắt là nguy hiểm đến tính mệnh, không nói nữa, phóng véo một chỉ ra, điểm huyệt tuyệt kỹ này của phái Thiếu Lâm gọi là Thiên Trúc Phật Chỉ. Tiêu Phong thấy Huyền Tịch phóng chỉ điểm ra, vừa nghe tiếng vù vù rất nhỏ nhẹ, đã nói ngay:
– Lâu nay tôi vẫn ngưỡng mộ ngón Thiên Trúc Phật Chỉ quả nhiên lợi hại. Nhưng ngón này là võ công của người Hồ bên Thiên Trúc mà đại sư đem ra để đấu với huyền phát chính tông của Đức Thái Tổ bản triều, thì dù đại sư có thắng được tôi, há chẳng mang tiếng là kẻ thông Thiên bán nước, làm nhục cho bản triều ư?
Huyền Tịch vừa nghe, bất giác rùng mình.
Hôm nay quần hùng sở dĩ đến đây vây đánh Tiêu Phong vì ông là giòng giống rợ Hồ nước Khất Đan. những môn phái võ Thiếu Lâm được truyền vào Trung Quốc từ lâu. Các môn phái ở Trung nguyên chẳng nhiều thì ít đều có liên quan đến những môn võ của phái Thiếu Lâm. Mọi người cơ hồ quên lãng mối liên quan giữa người Hồ và phái này.
Quần hùng nghe Tiêu Phong nói, ai nấy trong lòng rung động, vì trong các vị anh hùng ở đây, có nhiều nhân vật kiến thức rất rộng, không khỏi nghĩ thầm: Bọn ta đã kính cẩn Đạt Ma Lão Tổ như một vị thần minh mà sao lại căm hận người Khất Đan đến xương tuỷ? Cả người Khất Đan cho chí người Thiên Trúc đều là nói giống rợ Hồ chứ đâu có cùng chủng tộc với mình? Xét cho cùng thì hai giống người này khác nhau xa: người Thiên Trúc trước nay không tàn sát đồng bào Trung quốc, còn người Khất Đan thì tàn ác vô cùng.
Như vậy thì không phải cứ thấy người Hồ là giết, mà bên trong còn phân biệt kẻ thiện người ác. Thế thì giòng giống Khất Đan không có ai là người tốt ư?
(trang 151, 152 quyển 2)
Tiêu Phong lấy ngay cái eo hẹp của lượng người để làm vấn nạn. Người Hán có mặc cảm tự tôn của người Hán, hãnh diện với Thái Tổ trường quyền do vị vua sáng lập ra nhà Tống sáng chế. Từ đó, quần hùng Trung nguyên xem thường bọn tây hồ, bắc địch, nam man, đông di. Bây giờ, trong lúc nguy nan, nhà sư nặng lòng dân tộc mà quên đạo pháp lại đem võ công của người Hồ ra tranh đấu với võ công bản triều, không chú ý đến sự nghịch lý trớ trêu của hành động. Nếu vì muốn thắng Hồ mà phải sử dụng võ công của rợ Hồ, thì làm sao phân biệt được phải trái, đen trắng?
Huyền Tịch bất giác rùng mình vì Tiêu Phong đã chứng tỏ cho đại sư thấy sự mê lầm, và hơn thế nữa, đánh đúng được niềm băn khoăn bấy lâu Huyền Tịch chưa tìm ra lối thoát: Làm sao giải quyết được mâu thuẫn quyền lợi dân tộc và đao pháp? Nếu tu sĩ phải đứng trước một hoàn cảnh trớ trêu, một bên là sự tồn vong tối thượng của quốc gia một bên là lý tưởng tôn giáo, thì tu sĩ phải dung hoà thế nào giữa đạo và đời? Huyền Tịch trước hết tự nhận là một đại sư xem tất cả không hơn đống bụi trần hay trước hết là một công dân Đại Tống? Nếu vì quyền lợi của Đại Tống mà mê lầm, Huyền Tịch có quyền tiếp tục mặc bộ áo cà sa. Chỉ có các nhà sư Việt Nam thời Lý Trần mới có quyết định cởi áo nâu cầm gươm giệt giặc, rồi rửa tay gác kiếm, thanh thản trở về dưới cội Bồ đề. Mà cho dù có dứt khoát được như vậy, trên toà sen, Đức Phật cũng không khỏi nhìn nhà sư ái quốc với đôi chút ngậm ngùi . Huyền Tịch bất giác rùng mình, rồi từ đó cập thuyền vào bến Giác.
Sau đó, Tiêu Phong đặt câu hỏi khai ngộ rõ ràng hơn cho đại sư Huyền Độ:
“Đột nhiên Tiêu Phong hỏi:
– Huyền Độ đại sư, gia gia tại hạ (chỉ Tiêu Viễn Sơn, người Khất Đan, cha của Tiêu Phong, bây giờ đang tu ở chùa Thiếu Lâm) ở quí tự có mạnh giỏi không?
Huyền Độ sửng sốt đáp:
– Lệnh Tôn đã quy y, vào thanh tu trong hậu viện chùa Thiếu Lâm. Lúc bần tăng đi Nam Kinh, không muốn đến chào lệnh tôn để khỏi bận lòng trần tục.
Tiêu Phong nói:
– Tại hạ muốn gặp gia gia để hỏi người một câu.
Huyền Độ hắn giọng một tiếng chưa nói gì, thì Tiêu Phong lại tiếp:
– Tại hạ muốn hỏi gia phụ: Nếu Liêu binh đến đánh chùa Thiếu Lâm, thì người xử trí ra sao?
Huyền Độ đáp ngay:
– Bần tăng nghĩ rằng dĩ nhiên cư sĩ sẽ giết địch để bảo vệ Phật pháp.
Tiêu Phong nói:
– Nhưng gia phụ là người Khất đan, chẳng lẽ lại vì người Hán mà giết người Khất đan ư?
Huyền Độ trầm ngâm một chút rồi nói:
– Bang chúa (chỉ Tiêu Phong) quả là người Khất đan mà bỏ chỗ tối để theo chỗ sáng, thật là đáng kính phục.
Tiêu Phong nói:
– Đại sư là người Hán thì nghĩ người Hán sáng mà người Khất Đan tối. Tại hạ người Khất đan cũng tưởng Đại Liêu sáng còn Đại Tống tối, Tổ tiên tại hạ bị giống người Yết tàn sát, lại bị người Tiên ti hà hiếp cực kỳ khốn khổ, chạy hết chỗ này đến chỗ khác. Đời nhà Đại Đường, người Hán võ công cực thịnh, đã giết không biết bao nhiêu là dũng sĩ, cướp bao nhiêu là phụ nữ Khất đan. Bây giờ đời Tống, võ công người Hán kém cỏi, nên lại bị người Khất Đan tàn sát. Hai bên thù oán đời đời biết bao giờ mới hết?
(trang 337, 338 quyển 8)
Huyền Độ lẳng lặng một lúc, rồi cất tiếng niệm Phật nghĩa là bất đầu nhận thức được lẽ sắc không, vượt qua những cố chấp về kỳ thị chủng tộc và tự ái quốc gia. Sự thức tỉnh của một đại sư ngộ đạo đưa tâm hồn người đến chỗ sáng suốt, nên có thể Huyền Độ đại sư lâm râm niệm kinh Kim Cương hay Viên Giác.
Nếu tất cả đều ngộ tự nhiên thiên hạ sẽ thái bình. Mọi người sẽ thành thật thương yêu nhau, tôn trọng lẽ sống và quyền tự do tối thượng, đề cao nhân phẩm. Khổ nỗi tôn giáo chỉ là cái mộc tự vệ, an ủi của kẻ yếu, khi chưa giải quyết được sự bất công. Khi chưa giải quyết được nguồn nheo nhóc trên địa hạt hữu hình cụ thể, khuynh hướng giải thích siêu hình để con người chấp nhận thực trạng khốn khó gần giống như sự làm ngơ, thoả hiệp. Chính đó là nguyên nhân sự lúng túng thụ động của Thiếu Lâm trước những vấn nạn cấp thiết đòi hỏi một giải pháp cấp thời, nhãn tiền. Nhiều lúc các đại sư lại còn hiện diện cho kẻ khác lấy cớ hành động mê muội. Quần hào Cái bang truất ngôi bang chúa của Kiều Phong, các đại sư Thiếu Lâm có mặt để đóng vai chủ toạ. Quần hào Trung nguyên tụ họp ở Tụ hiền trang, để xếp đặt kế hoạch tiêu diệt một người chỉ có mỗi cái tội làm người Khất đan, các nhà sư vẫn sẵn sàng tham dự. Với uy tín cao cả môn phái được xem là võ lâm bắc đẩu, nếu các vị sư Thiếu lâm muốn hoà giải giữa hai dân tộc Liêu Tống, muốn ngăn cản một cuộc đổ máu vô ích, muốn giác ngộ kẻ đại ác, muốn bảo vệ công lý, thì hoài bão đó có thể thực hiện được dễ dàng. Ở đây, họ không làm gì hết, chỉ nhìn mọi diễn tiến kỳ quặc của đời sống thế tục với nhãn quan siêu hình.
Cho nên Tiêu Phong đã khai ngộ cho các thiền sư, mà sự tranh chấp đố kỵ giữa hai dân tộc láng giềng vẫn không giải quyết được. Những âm mưu tranh bá đồ vương vẫn tiến hành, và tiến hành ngay dưới mái chùa Thiếu Lâm: Mộ dung Bác âm mưu phục hưng cho Đại Yên, Tiêu Viễn Sơn âm mưu thu thập tinh tuý võ học của Trung nguyên cho quyền lợi ưu thắng của Đại Liêu. Chính Mộ Dung Bác hùng hồn chứng minh rằng sở dĩ mình hùng hồn phao vu cho Tiêu Viễn Sơn, chỉ vì muốn gây hiềm khích giữa Liêu Tống. Hai nước giao tranh, họ Mộ Dung mới có thể nhân cơ hội phục hưng nhà Yên.
Ngay dưới mái chùa Thiếu Lâm, Mộ Dung Bác đề nghị với Tiêu Phong:
“- Nếu nhà Mộ Dung dựng cờ khởi nghĩa dấy quân vào cướp Sơn Đông, mà được Đại Liêu hưởng ứng, đồng thời mấy nước Thổ phồn, Đại Lý cùng Tây Hạ cũng đứng lên thì năm nước chúng ta chia cắt nhà Đại Tống không phải là chuyện khó. Nước Yên của tại hạ không dám động chạm đến một tấc đất của Đại Liêu. Nếu công cuộc phục hưng thành tựu thì chỉ lấy đất Nam triều. Vụ này rất có lợi cho Đại Liêu, sao Tiêu huynh lại không vui lòng cử sự?
Tiêu Phong nghiêm nghị nói:
– Mối đại thù giết mẹ đâu có thể đem ra làm chuyện mua bán? Báo được thù thì báo, cha con ta chịu chết nơi đây. Những chuyện tham lam hèn hạ, cha con họ Tiêu này đâu có thể làm được.
Mộ Dung Bác ngửa mặt lên trời cả cười rồi lớn tiếng nói:
– Ta thường nghe nói Tiêu Phong đại hiệp là tay anh hùng quán thế kiến thức phi thường. Dè đâu bữa nay mới thấy rõ y là kẻ không hiểu đại nghĩa mà chỉ sính cường theo cái dũng của kẻ thất phu. Ha ha! Thiệt là đáng tức cười.
Tiêu Phong biết lão dùng lời nói khích, lạnh lùng nói:
– Tiêu Phong là anh hùng hào kiệt cũng được mà là phàm phu tục tử cũng được, nhưng không thể để kẻ khác dùng làm cái bung xung cho thoả tâm nguyện của họ.
Mộ Dung Bác nói:
– Kẻ ăn lộc vua phải biết trung quân mà đại hiệp lại nghĩ đến tư cừu của cha mẹ, không đem lòng tận trung báo quốc, há chẳng bất nghĩa với Đại Liêu?
Tiêu Phong tiến lên một bước hiên ngang nói:
– Ngươi vừa mới nói ngoài biên cương hai nước Tống Liêu thù hận giết nhau gây nên thảm trạng. Ngươi đã thấy cảnh người Tống và người Liêu chia lìa vợ con nhà tan người chết rồi chớ gì? Hai nước Tống Liêu bãi cuộc binh đao mấy chục năm xâm lấn Nam triều, rồi sẽ có bao nhiêu người Tống phải phơi thây? Bao nhiêu người Liêu phải uổng mạng?
Cuộc chiến chinh thảm khốc trên thế gian này ai là người nắm chắc được phần thắng? Nhà Đại Tống binh nhiều lương đủ, chỉ cần mấy viên đại tướng hết sức chống cự thì nước Đại Liêu và nước Thổ Phồng có hợp lực chiến đấu mà thắng được cũng phải máu chảy thành sông, thây chất thành núi, để cho họ Mộ Dung nhà ngươi thừa cơ phục hưng Yên Quốc. Việc kiến công lập nghiệp cần phải giữ đất yên dân như thế sao?
(trang 225, 226 quyển 7)
Tiêu Phong nhìn con người như nhìn một sinh vật tối thượng không thể nhân danh bất cứ điều gì, đưa ra bất cứ chiêu bài nào để hành hạ huỷ diệt. Dù biên giới có là sông rộng nước chảy tràn hai bờ xa lạ hay là những ngọn núi chất ngất đi lại khó khăn, bên này Nhạn môn quan và bên kia Nhạn môn quan, Tiêu Phong chỉ thấy những người dân sống trọn vẹn liên kết với tình cha mẹ vợ chồng anh em láng giềng, hệ luỵ với đất đá cây cỏ ruộng nương. Ngược lại, Mộ Dung Bác chỉ xem con người như một phần tử của cộng đồng thuần nhất bởi nòi giống quyền lợi vì vậy chịu tất cả những áp lực của gánh nặng của áp lực tinh thần, siêu hình, kinh tế, văn hoá. Con người, theo Mộ Dung Bác chỉ xứng đáng tồn tại nếu chịu tuân theo những quy luật có lợi cho cộng đồng, thích hợp với guồng máy chung.
Những lời tâm huyết của Tiêu Phong đã thức tỉnh được phần nào Mộ Dung Bác, kẻ chỉ mới mơ ước vươn tới chiếc vương miện uy quyền. Mộ Dung Bác chưa mắc kẹt trong mê hồn trận của sức mạnh uy quyền, chưa đạt danh vọng nên có thể tha làm phúc. Nhưng Tiêu Phong đã thất bại khi muốn can gián một ông vua tại vị dấn mình vào cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi: Gia Luật Hồng Cơ.
Tiêu Phong không làm gì được để ngăn cản cuộc nam chinh của hoàng đế Đại Liêu, đành liều thân uy hiếp Hồng Cơ để bắt thề độc là từ nay về sau không bao giờ có ý định xua quân vượt qua Nhạn môn quan. Sau hành động tuyệt vọng ấy, Tiêu Phong chỉ còn một ngõ cụt: cái chết.
Đối với Đại Liêu, Tiêu Phong hết còn đất sống, vì đã dám bức bách hoàng đế. Đối với Đại Tống, trước sau ông cũng chỉ là một kẻ xa lạ không thể hoà đồng vào cuộc sống chung của Hán tộc. Kẻ muốn làm kiếp chim, bay bổng lên trên, xoá hết ranh giới nhỏ hẹp để sống theo tình người, kẻ muốn Nhạn môn quan hạ thấp và nâng cao thương yêu, liên đới nhân loại, không thể nào có đất đứng giữa xã hội này.
Ông chỉ còn có cách tự vẫn, để cho vó ngựa Khất đan không vượt qua ải. Ông đã thành công một cách tuyệt vọng:
“Vó ngựa lộp cộp vang lên một lúc, hàng vạn nhân mã nước Liêu vừa đi vừa ngoảnh cổ lại nhìn thi thể Tiêu Phong nằm thẳng dưới đất ra chiều thương cảm.
Trên vòm trời, tiếng chim líu lo gọi nhau. Một đàn hồng nhạn vượt qua đầu đoàn quân Liêu từ phía bắc xuống phía nam lại vượt qua bức tường thành Nhạn môn quan rồi bay mãi đi. Quân Liêu đi mỗi lúc một xa, tiếng vó ngựa dần dần biến thành những tiếng sấm rền khe khẽ phía sau núi.
(trang 354 quyển 8)
Cuối cùng, vượt qua được biên giới quốc gia, chỉ có loài chim. Loài người hai chân dính chặt vào đất bùn lầy, lòng đầy thành kiến và hận thù, hai tay với mãi không tới được dự ước, làm sao ngông cuồng bắt chước Tiêu Phong?
Lục Mạch Thần Kiếm chấm dứt với tiếng thở dài của Kim Dung và lời ríu rít líu lo chế diễu của một loài chim.
Nguyễn Mộng Giác
(1) Theo nhận xét của A Châu
(2) Theo ý kiến Bảo Thiên Linh
Số lần đọc: 17537