California 23 tháng Tư 2001
Thưa Anh,
Làm xong Văn Học số tháng Năm 2001, đưa cho nhà in, rảnh trí, mới ngồi vào máy điện toán bình tâm viết thư cho Anh. Và thay vì gửi theo đường bưu điện như đã thưa trước với Anh, tôi xin đánh chữ có dấu rồi gửi attach theo e-mail cho tiện và nhanh hơn.
Công trình Anh đọc Sông Côn Mùa Lũ cả hai năm như thế, với thì giờ và tâm huyết bỏ ra để đọc một bộ sách dày 2000 trang, cũng đã đủ để tác giả không thấy hối tiếc đã bỏ công viết ra. Những người đọc như thế ngày càng hiếm, khiến như có một lần tôi viết cho tờ Việt, tác giả luôn luôn có cảm giác bẽ bàng là mình đã uổng công làm một chuyện chẳng đi tới đâu, viết cho cực rồi tác phẩm lại rơi vào hư vô và sự thờ ơ của ngay người trong giới. Lâu lâu có những bài phê bình trên báo, thì những bài ấy lại chỉ chú trọng tới những vấn đề “ngoài văn chương”. Nay được có một người đọc như Anh, may mắn lắm. Thử làm một cuộc đối thoại trao đổi ngắn giữa người viết và người đọc, xem sao.
Tôi có dự định viết bộ truyện này từ tháng 10.1977. Trang đầu bản thảo cuốn I SCML, tôi có chép:
Nhật ký
4.10.1977: Quyết định: Bắt đầu tìm tài liệu để viết một cuốn tiểu thuyết về thời Tây Sơn. Thời hạn: 2 năm. Dài: 1000 trang.
Quán cà phê đường Duy Tân, với Nguyễn Thành Hải, gần Tết 1978:
Chiều đẹp. Đêm xuống dần, ánh đèn thủy ngân rọi lên màu sương lãng đãng dưới hai hàng cây cao đường Phan Đình Phùng. Trong một lúc cao hứng, hứa với Hải sẽ viết một cuốn tiểu thuyết thật dài về tâm trạng trí thức thời loạn. Chọn thời Tây Sơn của các nho sĩ thời xưa.
24.5.1978: Bắt đầu viết chương 1 của bản thảo.
1.9.1980: viết xong chương cuối của Phần VI.
1.3.1981: Viết xong chương cuối phần Kết từ.
Như vậy ý định ban đầu của tôi là viết về tâm trạng trí thức thời loạn, và vì không thể viết về tâm trạng của mình và bạn bè mình sau thời gian sống dưới chế độ mới, tôi phải di chuyển thời gian qua hai thế kỷ trước, vào thời Tây Sơn, vì như thế sẽ an toàn về chính trị.
Vì phải tìm hiểu xem trí thức nho sĩ thời Tây Sơn ứng xử thế nào trước một thời thế đổi thay cùng cực như hồi ấy, nên tôi tìm đọc hầu hết sách vở tài liệu về nho sĩ thời Tây Sơn, và vui mừng khám phá ra rằng tâm trạng của họ rất phức tạp, đủ dạng đủ vẻ y như tâm trạng trí thức văn nghệ Miền Nam sau 1975, từ cực hữu quyết liệt “không thèm ăn thóc nhà Chu”cho đến những tay cơ hội đa tài như Nguyễn Hữu Chỉnh. Có được một ý chính làm mục tiêu cho bộ truyện rồi, tôi mới nghĩ đến cấu trúc tổng thể của bộ truyện: có hai giàn truyện đi song song với nhau, một giàn có thể gọi là sự vươn lên và suy tàn của một triều đại, qua diễn tiến của triều Tây Sơn; một giàn là diễn tiến mối tình giữa Nguyễn Huệ và một nữ nhân vật nào đó lấy trong dân gian và không có trong sử sách để làm “màu mè” cho tiểu thuyết, và cho mình có cơ hội “tự do” vẽ vời những gì mình muốn vẽ (vì sử sách có sẵn không thể tự do biến đổi được). Kết quả: từ đôi ba dòng sử sách dành cho giáo Hiến thầy học của Nguyễn Huệ Nguyễn Lữ, tôi nâng giáo Hiến lên thành một trong những nhân vật chính, đại diện cho khuynh hướng trung quân cực đoan; còn gia đình giáo Hiến là phần hư cấu đại diện cho những tầng lớp dân chúng thời loạn: Kiên là mẫu người thụ động “trôi nổi theo lịch sử” như đám đông dễ uốn nắn dễ sai khiến của mọi thời đại; Chinh như một người tham gia lịch sử vì thích bạo động, Lãng đại diện cho giới nghệ sĩ nhạy cảm yếu đuối nhưng sống trung thực, An là người phụ nữ thời loạn với tất cả sự thông minh quả cảm mà theo tôi, Việt Nam qua bao tai ương chiến tranh mà vẫn còn tồn tại là nhờ những người phụ nữ này.
Trên đây là những gì tôi phác họa trước khi bắt đầu viết, từ bản phác họa này tôi đặt tên cho các nhân vật, làm lý lịch của họ, cho mỗi người một nhân dáng, tính tình chung chung (chung chung vì cả nhân dáng lẫn tính tình sẽ phải thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh sau này).
Khi bắt đầu đặt bút viết những dòng đầu tiên, tôi bị khựng lại vì câu hỏi đột ngột đến: Viết cách sao đây? Vì mình sắp viết về những người sống cách đây hai thế kỷ, thì họ ăn nói, yêu buồn giận hờn như bây giờ, liệu có được không? Hỏi xong tôi hỏi lại: Nếu không cho họ ăn nói và sống như bây giờ, thì họ ăn nói cư xử như thế nào? Chẳng lẽ họ ăn nói như trong tuồng hát bội? Viết thế nào mới là viết theo lối cổ? Cuối cùng, tôi tìm ra câu trả lời: Cách ăn nói ngày xưa có lẽ không khác với ngày nay bao nhiêu, vì đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, ta thấy tiếng Việt hồi đó không khác nhiều so với bây giờ. Vả lại, viết là viết cho người ngày nay đọc, và ai cũng biết tuy truyện xảy ra ngày xưa nhưng tác giả chỉ “mượn xưa để nói nay”, thì việc gì phải cố gắng tồn cổ. Ngôn ngữ tiếng Việt dùng trong truyện cũng không cần phải khai thác cách nói của địa phương, chẳng hạn Nguyễn Huệ nói theo cách nói người Bình Định, Trần văn Kỷ thì phải mô tê răng rứa, còn Nguyễn Hữu Chỉnh phải nói giọng Bắc, Nguyễn Thiếp đối đáng đúng kiểu ông đồ Nghệ. Tôi nghĩ cách tận dụng địa phương ngữ chỉ thích hợp cho những tiểu phẩm, còn một bộ trường thiên dung lượng lớn, vấn đề vốn đã phức tạp, đừng nên làm cho độc giả rối đầu bằng địa phương ngữ. Tôi dùng một thứ “tiếng Việt chuẩn thông dụng” cho toàn bộ truyện, không khai thác địa phương ngữ.
Còn nhân vật thì xem tất cả nhân vật từ bậc vua chúa đến thường dân đều là những con người bình thường, như đã trình bày trong bài “Nhìn lại những trang viết cũ” anh đã đọc trên Việt và Văn Học.
Lúc bắt đầu viết SCML, tôi làm công cho tổ hợp sản xuất mì sợi Dân Sinh dưới quận 11 Chợ Lớn. Thời khóa biểu hằng ngày là sáng 6 giờ dậy, đạp xe đạp xuống Phú Lâm mang theo lon Guigoz chứa chén gạo và hũ chao, làm việc (phụ trách đưa vỉ mì sống vào lò hấp và đem vỉ mì đã chín ra cho người khác vắt thành vắt nhỏ) từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa, nghỉ trưa đem lon Guigoz gạo bỏ vào lò hấp nấu cơm, ăn cơm, xong ngồi viết SCML cho đến 2 giờ chiều, lại tiếp tục công việc hấp mì cho đến 6 giờ chiều, xong việc đạp xe về Thị Nghè, cơm tối, rồi ra đầu ngõ mua một ly cà phê để ngồi viết tiếp SCML từ 9 giờ đến 12 giờ khuya. Tôi làm việc đều đặn như thế, viết hết chương này đến chương khác, viết một lần thôi, không sửa chữa gì nhiều trừ vài chữ vài câu sai. Khi viết tiếp, đọc chương vừa viết trước đó để ý tưởng liên tục. Cũng may tôi có một khả năng đặc biệt về bố cục, nên cả hai bộ trường thiên, tuy “đến đâu viết đấy” không có bố cục trước, nhưng ít có những lỏng lẻo hay nhầm lẫn lớn trong cả hai bộ truyện. Việc xuất hiện của nhân vật ở các chương, tôi phải tính toán để không có nhân vật nào bị bỏ quên quá lâu. Chẳng hạn trước khi viết chương nào, tôi phải ghi trong chương đó nhân vật nào sẽ xuất hiện, nhờ thế biết được lúc nào nên thôi nói về nhân vật nào, lúc nào phải cho nhân vật kia xuất hiện trở lại. Lần xuất hiện của nhân vật nhiều hay ít tùy thuộc vai trò nhân vật đó quan trọng hay không trong hoàn cảnh của truyện.
Một vấn đề khác tôi gặp phải khi viết SCML, là cái nền tư tưởng phải có của một bộ truyện trường thiên. Tác phẩm bình thường chỉ cần “kể”, hay “tả” về một cảnh đời. Một bộ truyện phải có tư tưởng. Nhưng tư tưởng làm nền cho bộ truyện là gì? Phải công nhận Việt Nam chúng ta không có một nền tảng tư tưởng triết học nào rõ ràng, rốt ráo cả. Chỉ vay chỗ này một ít, chỗ kia một ít, chắp vá lại thành một thứ mà chúng ta thường gượng gạo mặc cho nó cái áo hoa “tam giáo đồng nguyên”. Cổ nhân thì cái gì cũng biện minh được, ham ra làm quan thì bảo vì nghĩa vụ theo đạo Nho, chán làm quan về đuổi gà thì bảo noi gương Đào Tiềm, vuốt râu tự khen mình biết thạo cả hai lẽ xuất xử. Thói quen làng nhàng đó kéo dài cho tới bây giờ, không có công trình gì đến nơi đến chốn. Tôi lúng túng không biết lấy gì làm nền cho bộ truyện, sau mới lấy tạm chủ đề: Thế nào là chính thống? Còn khi các nhân vật bị đối diện với những vấn đề siêu hình như cái chết cái sống, tôi đành đặt ra một thứ “tôn giáo lơ mơ pha lẫn chút thiền” như anh đã đọc qua cách hành đạo của Kiên và Nguyễn Lữ. Có thử viết những gì lớn rộng một chút, mới thấy các hạn chế của văn hóa dân tộc mình, mới thấy cái mỏng của chiều dày tư tưởng Việt Nam. Dân mình khôn vặt, đánh du kích giỏi nhưng đi đường dài thì dở lắm. Càng thấy dở càng ưa khoa trương, đại ngôn, lộng ngôn, kiểu các mệ hoàng tộc ở Huế đòi “đưa củ khoai cho mệ chém thử dao mệ có sắc không”.
Tôi trình bày với anh những điều tôi băn khoăn và lo tìm một giải pháp khi viết bộ truyện trường thiên đầu tay, một việc tôi chưa từng làm nên không biết phải làm thế nào, phải hỏi kinh nghiệm của ai, phải theo một mẫu mực nào. Có người tò mò hỏi, họ không tin khi tôi trả lời tôi cứ viết một mạch từ chương đầu tới chương cuối, không có những kế hoạch sơ đồ qui mô như bộ tham mưu một quân đoàn soạn thảo kế hoạch hành quân (vì tầm rộng không gian, thời gian, số nhân vật cũng tương đương cuộc hành quân cỡ quân đoàn). Đưa cho coi bản thảo viết tay có ghi ngày viết từng chương với nét chữ nét mực khác nhau, họ mới tin.
Từ những kinh nghiệm viết lách của riêng tôi (chẳng có qui củ nào cả), tôi thường hoài nghi những suy diễn lớn lao từ các sự kiện nhỏ nhặt, e dè trước những lời “lớn lối” kiểu tuyên ngôn tuyên cáo. Như tôi vừa viết ở đoạn thư trên, văn hóa dân tộc ta mỏng lắm, sức sáng tạo và suy tưởng yếu lắm, ra chiêu vài lần là hụt hơi, sau đó toàn là nói càng, viết rán, giọng “thằng mõ” hay là giọng “trương tuần” chỉ ánh ỏi trong khuôn khổ làng xã thôi.
Ham tâm sự với anh, giật mình xem lại thấy thư đã dài. Lại “hụt hơi” hay là “quá đà” rồi! Anh muốn trao đổi như thế này như là “tâm sự giữa LTT-NMG người đọc-người viết” nhiều kỳ không?
Thân mến,
Nguyễn Mộng Giác
Nguồn: http://damau.org/archives/4808

“Như tôi vừa viết ở đoạn thư trên, văn hóa dân tộc ta mỏng lắm, sức sáng tạo và suy tưởng yếu lắm, ra chiêu vài lần là hụt hơi, sau đó toàn là nói càng, viết rán, giọng “thằng mõ” hay là giọng “trương tuần” chỉ ánh ỏi trong khuôn khổ làng xã thôi.” -by Ng.Mộng Giác.
Đồng ý với NMG.Nhưng vì đâu lại như thế.