Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Thư viết từ Southern Hemisphere

Anh Giác thân,

Đêm qua nghe tiếng chim lạ trong khu vườn, tôi bỗng nhớ anh. Tiếng chim lạc lõng giữa tiếng lá xào xạc, trong cơn bão rớt. Lúc đầu, tôi tưởng mình nằm mê. Bởi như anh biết, ở những thành phố lớn như thành phố này, phải nghe tiếng động cơ suốt ngày, nhiều lúc muốn điên lên được. Nhưng không. Quả là tiếng chim lạc lõng của một con chim lạ nào đó, anh Giác. Tôi biết là không thể nào ngủ lại được. Đốt nến, pha một bình trà tàu và ngồi theo dõi tiếng gió. Anh đừng ngạc nhiên, từ ngày qua đây tôi vẫn còn giữ thói quen uống trà tàu buổi sáng.

A, tôi đang định nói với anh điều gì? Ừ về tiếng chim lạ. Tôi ngồi im, gắng rượt bắt ý tưởng mong manh khi nãy. Trò chơi này cũng thú vị, anh Giác. Nhiều lúc tôi tưởng là sắp sửa ‘nhớ’ lại, sắp sửa ‘bắt’ lại được cái ý tưởng chớm phát, nhưng nó lại tinh quái biến đi. Có cái gì liên hệ giữa tiếng chim lạ và những liên tưởng về anh, hay đúng ra là về Cô Phương Thảo của anh?

Thôi rồi, tôi nhớ ra rồi! Cái cô bé “lạc loài giữa sự độc ác và lòng nhân hậu”, bơ vơ tìm lại cái quá khứ mịt mù, đúng là hình ảnh của con chim lạ đêm qua. Hình ảnh con chim với một chút buồn rầu, ngơ ngác trên chuyến tàu về miền Nam Sydney mà tôi đã gặp khi được mời dự một đêm International Cultural Night ở một tỉnh nhỏ, có tên Oboriginal là ‘Quán Gió’ (thực ra tên có nghĩa là A Windy Place. Tôi lấy cái tựa sách của Ngọc Giao đặt tên cho có vẻ văn chương). Tôi đi cùng với một số sinh viên có đủ quốc tịch. Tầu là loại country train chạy cà rịch cà tang. Hình dáng các toa tàu xấu xí chẳng khác gì bên nhà của mình.

 

Anh có biết không, lúc mới qua đây tôi náo nức muốn đi một chuyến xe lửa thật xa để bù lại lúc bên nhà bọn mình cứ mơ tưởng được đi một chuyến tàu xuyên Việt. Tôi đi một chuyến tàu cả ngàn cây số xuống miền Nam Úc và mới biết là chẳng bao giờ mình có thể sống lại cái không khí mà chúng mình hoài niệm. Không thể tìm lại cái không khí ngồi giữa hai toa tàu, nhìn những đụn cát ngút ngàn dưới trăng, hay im nghe tiếng sóng biển rạt rào dưới kia, khi qua Cà Ná, Cà Ty hay Đại Lãnh.

 

Tôi lại nói lông bông nữa rồi. Chuyện tàu cà rịch cà tang, ghé từng ga lẻ, trong buổi chiều muộn. Anh có biết chuyện gì xảy ra không? Anh Giác, anh có tin là tôi đã ‘gặp’ cô Phương Thảo của anh không? Thôi để tôi nói lại, không chị đọc hiểu lầm rồi lại rầy rà “tôi thấy nhân vật Phương Thảo của anh!”. Tôi nói thật là anh Giác. Anh phải tin tôi mới được. Phương Thảo ngồi ở một góc tàu, lặng lẽ nhìn ánh đèn lẻ loi ngoài kia và hệt như trong câu chuyện của anh, Phương Thảo bắt đầu hát. Anh vẫn chế nhạo tôi là một thứ revolutionaire romantique. Nhưng tôi tin anh hiểu tôi và tin tôi khi tôi bảo anh: “Nhiều lúc tôi muốn chết ngay được, bởi tôi tin cái chết lúc đó là một cái chết dịu dàng và hạnh phúc.” Dĩ nhiên tôi cũng thành khẩn hết sức, chỉ độ mười phút sau, tôi lại nghĩ là tôi sẽ ân hận biết là bao nếu tôi phải chết lúc đó. Sống là một tặng vật kỳ diệu. Hạnh phúc là một tặng vật kỳ diệu khác. Được sống hạnh phúc tức là được hai tặng vật cùng một lúc. Dại gì chết lúc được cả hai tặng vật cùng một lúc!

Anh muốn cười thì anh cứ cười đi. Đời sống tự nó sinh hoá nhờ mâu thuẫn. Tôi cũng thế. Thôi, tôi sẽ không triết lý nữa, kẻo bị anh ngại là đại triết gia. Mà đại triết gia thì đã sao!

Có lẽ anh lại bật cười. Nhưng xin anh nhớ cho là tôi đang ‘thấy’ nhân vật Phương Thảo của anh. Tôi đang nghe tiếng hát của Phương Thảo. Nếu anh muốn đòi lại bản quyền, tôi sẽ trả tên Phương Thảo cho anh. Tôi gọi tên cô đồng hành là Phương T. Anh cho tôi mượn tạm tên đầu vậy.

Không phải là câu chuyện người em tóc vàng sợi nhỏ. Anh vốn biết tôi là thứ nationalist hạng nặng. Thôi tôi ráng không đùa nữa. Bởi tôi sắp sửa nói về nhân vật Phương Thảo của anh, cô bạn đồng hành của tôi. Vả lại đời sống và hạnh phúc đâu có phải là chuyện đáng đem ra nói đùa.

Tôi nhớ trong truyện, khi Phương Thảo được yêu cầu lên hát, nàng lại rơi vào trong quá khứ mịt mù. Cái quá khứ bủa vậy bởi lòng độc ác và thù hận dai dẳng. Tội nghiệp Phương Thảo, như con chim nhỏ trầm giọng kêu thương trong khu vườn cũ. Tiếng kêu thương khởi đầu cho những hy vọng tuyệt mù. Cánh cửa đã đóng lại một cách phũ phàng!

Tôi còn nhớ rõ, khi đọc xong bản thảo của anh, tôi còn cản thấy dư vị chát ngắt của một chén trà. Trong cơn tuyệt vọng, những đốm lửa đã ngời lên giữa những khuôn mặt đợi chờ. Lòng nhân hậu của một người anh, một người tình, không xua đuổi nổi những bóng đen của quá khứ. Anh kết luận chua chát là “không còn một chỗ nào dành cho Phương Thảo”. Con chim trong khu vườn cũ vẫn còn trầm giọng kêu thương.

Tôi không nghĩ như anh, anh Giác. Phương Thảo vẫn can đảm đứng giữa bóng đen của lòng thù hận, độc ác. Phương Thảo dù hiện thân cho một thế hệ cô đơn, nhưng như một nhân vật của Saint-Exupéry, gối tay nằm trên cát, ngửa mặt nhìn trời, ráng tìm cho ra ngôi sao định mệnh của đời mình. Lòng nhân hậu vẫn cần thiết như những buổi sáng mai.

Tôi đã cám ơn chuyến country train chiều hôm đó, cà rịch cà tang, ghé từng ga nhỏ. Bởi tôi sẽ buồn bã biết bao nhiêu nếu tôi đi nhầm chuyến xe tốc hành. Khi nghe cô đồng hành của tôi hát, tôi đã nhìn thấy lại cô bé Phương Thảo lạc loài trong truyện của anh, tôi đã nghe tiếng chim lạc lõng trong khu vườn cũ trong chính toa tàu ngày hôm đó. Anh muốn cười thì anh cứ cười, nhưng anh phải tin lời nói của tôi mới được, anh Giác.

Dù có cà rịch cà tang mấy chúng tôi cũng đến ga cuối. Mấy sinh viên trong ban tiếp đón rất dễ thương. Tôi nhớ là tôi cưới nói với họ hơi nhiều. Tôi đang sung sướng mà, sung sướng như một người sắp sữa say rượu. Sung sướng như thuở còn đi học, làm bài thơ đăng báo đầu tiên. Nếu có anh ở đây, tôi sẽ bắt anh ngồi yên để nghe Phương T hát. Anh sẽ ngạc nhiên biết bao khi nghĩ rằng, nhân vật trong mộng tưởng của mình, lại có thể hiện diện trong cõi nhân sinh này.

Dù mệt nhoài vì đêm trước đã thức dự dạ hội đến 4 giờ sáng, tôi vẫn còn tỉnh táo để nghe tiếng gà gáy lúc gần sáng. Anh có thể hỏi tại sao tôi nhớ những chi tiết lẩm cẩm như vậy. Nhưng anh phải biết đối với tôi, chúng rất là quan trọng. Từ ngày qua đây, tôi chỉ nghe tiếng gà gáy 2 lần. Lần trước trong chuyến đi miến Bắc, ghé Armidale, thăm mấy anh em sinh viên mình ở đó. Bọn này thắp nến, uống rượu, nghe anh Thịnh hát và gần sáng, tôi nghe văng vẳng tiếng gà. Mấy năm sống ở Sài Gòn, ngửi khói bụi xe, tiếng gà gáy biểu tượng cho những ngày cũ mịt mù, đối với tôi quý giá vô cùng. Và trời ơi, sáng hôm sau Phương T cũng nói ý nghĩ giống hệt như tôi.

Buổi sáng trong khu vườn nắng, tôi lặng lẽ ngồi uống cà phê do cô pha. Rồi trong cơn mê sảng, tôi nói huyên thiên. Đến từng tuổi này sao tôi còn vụng dại như ngày mới lớn. Thì ra ai sung sướng cũng hóa ra vụng dại.

Những tấm lòng nhân hậu cùa người anh, người tình trong truyện, những tấm lòng nhân hậu như anh, vẫn chưa đủ để tìm lại khu vườn nắng cho con chim nhỏ thôi lẻ loi. Nhưng riêng tôi, tôi tin những tấm lòng nhân hậu cần thiết như buổi sớm mai. Riêng tôi, tôi tin những điều tôi nghĩ và sống những điều tôi nghĩ. Rồi sung sướng khi bắt gặp những hạnh phúc tình cờ, như trong buổi sáng hôm đó.

Dù sao, tôi cũng mừng tác phẩm của anh tránh được lưỡi kéo kiểm duyệt của những nhà ‘văn hoá cái chảo’, để Phương Thảo còn chút hy vọng trong cõi đời đầy dẫy những tâm hồn độc ác. Khi nào in xong anh nhớ gởi tặng cô đồng hành của tôi. Bởi buổi chiếu hôm đó, cô đã hóa thân thành con chim vườn cũ, hát lặng lẽ, hy vọng thấy được chút nắng ấm và chút trời xanh. Buổi sáng tôi đã ngất ngây vì tiếng gà, sung sướng vì trời thật xanh và năng thật ấm.

Anh thấy tôi viết thơ dài, anh hiểu là tôi đang sung sướng. Và có lẽ phải cám ơn anh, cám ơn nhân vật Phương Thảo của anh. Cũng phải cám ơn Phương T, cô bạn đồng hành của tôi, giúp tôi có được một chuyến hành trình tuyệt vời. Cũng cám ơn chuyến country train đã cà rịch cà tang đưa chúng tôi trở lại khu vườn ngày cũ.

 

Quán Như

Sydney tháng 10- 1973.

 

Ghi chú: Bài viết tặng Nguyễn Mộng Giác khi đọc bản thảo Tiếng Chim Trong Vườn Cũ, do Trí Đăng xuất bản vào tháng 11-1973. Tác giả viết theo ký ức khi đọc bản thảo (nguyên tên truyện là Phương Thảo)

Sau 30 năm, bản viết tay được tìm thấy trong đống thư từ ngổn ngang. Tôi đã làm bản sao gởi tặng Giác khi nghe tin anh rửa tay gác bút.

Nguồn: http://www.chuyenluan.net/2004/200411/0411_06.htm

 

   Số lần đọc: 3572

Tác Phẩm

BÀI KỀ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây