Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Trang NhàBài Viết NgắnBài Đăng Trên Tạp Chí Văn HọcTình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học

Tình trạng lão hoá trong sinh hoạt văn học

Bài này đăng trên Tạp Chí Văn Học số 153-154

Không biết từ lúc nào, ban biên tập các số báo Tết Việt ngữ có thông lệ tổng kết tất cả những gì xảy ra trong năm, xem bài tổng kết này như một mục bắt buộc phải có. Tôi không biết các báo bên Âu châu có thông lệ ấy không. Riêng báo Mỹ, không thấy. Chỉ có những nhân vật thời sự nổi bật trong năm, hoặc những biến số quan trọng trong năm. Còn liệt kê, sắp xếp, định giá các sinh hoạt mọi ngành một cách qui mô, ôn chuyện cũ rồi mạnh tay tiên đoán chuyện sắp tới, hình như chỉ có báo Việt mới can đảm làm chuyện liều lĩnh ấy. Nhất là những bản tổng kết về sinh hoạt văn chương, nghệ thuật. Tôi nghĩ tất cả khởi đầu từ Tự Lực văn đoàn, khi nhóm chủ trương bắt đầu làm những số báo Tết công phu về hình thức lẫn nội dung. Khi đã dành một số báo đặc biệt cho dịp lễ truyền thống quan trọng này, tự nhiên người ta cũng muốn tờ báo có cái gì lớn lao, tính thời gian không hạn hẹp trong một ngày, một tuần, một tháng… mà là toàn năm.

Tôi cũng nghĩ rằng thông lệ đó bắt nguồn từ một phong tục tín ngưỡng dân gian lâu đời, là tục hai mươi ba tháng Chạp đưa ông Táo về Trời, để ông Táo tâu hết mọi việc xảy ra trong gia đình chủ nhà với Trời, cho Trời có hồ sơ luận công định tội. Sớ Táo quân thảo bằng thể nói lối bình dân là tổ tiên của những bài tổng kết tràng giang đại hải trên báo Việt ngày nay, chỉ thay đổi từ chất trào phúng giáo dục sang tính nghiêm chỉnh bác học.

Những bài tổng kết [thường có nhan đề như “Nhìn lại kinh tế (giáo dục, chính trị, điện ảnh, tiểu thuyết, thi ca…) một năm qua] như thế đòi hỏi một số điều kiện. Khi nói đến “tổng kết”, thì trước hết trong thời gian qui định phải xảy ra những sự việc quan trọng để căn cứ vào đó người làm tổng kết có cái gì mà làm con tính cộng cho ra một số thành, rồi giải nghĩa vì sao có con số thành ấy. Con số sự việc phải khá cao để ứng dụng qui nạp pháp một cách khả tín, thuyết phục được người đọc rằng căn cứ vào các vụ việc như thế như thế, thành quả trong năm qua của chúng ta là thế này thế này. Nếu con số này không nhiều, bảng tổng kết trở nên “bất cập”.

Trường hợp ngược lại thường xảy ra tại các nước mà sự phát triển trong mọi sinh hoạt xã hội quá dồi dào và phức tạp, nghĩa là “thái quá”. Chẳng hạn ở một nước hàng năm có đến hàng vạn cuốn sách in ra, không ai đủ thì giờ ngồi đọc kỹ tất cả các sách đã in để làm bản tổng kết tình hình xuất bản trong năm. Không đọc được hết mà dám ngồi ba hoa về một thứ biểu nhất lãm (panorama), chỉ có người điên mới dám làm. Tại các nước Âu Mỹ, quá lắm người ta chỉ dám làm bảng liệt kê những cuốn sách bán chạy nhất, căn cứ vào những số liệu chính xác về số sách bán ra. Việc xếp hạng giá trị các sách thường do những hội đồng định giá của các giải thưởng, và chỉ có giá trị tương đối. Phần định giá chung quyết còn lại, phải để cho luật đào thải của thời gian. ít ai dám ngang nhiên ngồi làm bảng tổng kết một cách tự tín ung dung như những người làm báo Việt ngữ.

Ở hải ngoại, nhờ số sách xuất bản hằng năm không “bất cập” mà cũng không “thái quá”, nên việc làm tổng kết tính sổ cuối năm vẫn được duy trì trên báo chí. Ðều đặn nhất, chăm chỉ nhất, cẩn trọng nhất, trong công việc nặng nhọc (và bạc bẽo, dễ gây ân oán giang hồ) này, là giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Năm nào, giáo sư cũng làm một bài tổng kết tình hình xuất bản sách báo trong năm qua, đăng trên bán nguyệt san Ngày Nay ở Houston. Công việc của giáo sư giúp ích rất nhiều cho những nhà nghiên cứu văn chương hải ngoại trong tương lai, vì giáo sư theo dõi rất sát những sách báo Việt ngữ xuất bản khắp thế giới. Gần như cuốn nào đã được in ra, phát hành rộng ra ngoài vòng thân nhân bà con tác giả, giáo sư Bích đều biết. Bản liệt kê của giáo sư rất đầy đủ, không có thiên kiến thường thấy ở những người làm tổng kết là chỉ chú trọng những cuốn sách có giá trị (dĩ nhiên theo tiêu chuẩn định giá hoàn toàn chủ quan). Ðôi khi người đọc cũng nhặt được trong bài viết của giáo sư Bích những viên sạn: chẳng hạn khi bàn về một tác phẩm, giáo sư không có thì giờ đọc tác phẩm đó, chỉ dựa vào lời giới thiệu sách trên các tạp chí. Mà lời giới thiệu sách này lại do chính tác giả viết ra để quảng cáo, hay ban biên tập của tạp chí lấy lại lời giới thiệu tâng bốc của nhà xuất bản. Khuyết điểm này không phải của giáo sư, mà là kết quả của một dây chuyền những khuyết điểm của ngành lý luận phê bình tại hải ngoại. Các tạp chí không có người chuyên trách đọc và điểm sách, lại không muốn mất lòng các văn hữu đã có nhã ý tặng sách, nên giới thiệu sách với những lời lẽ chung chung, nặng phần khen ngợi khuyến khích hơn phần phê bình nghiêm chỉnh. Người làm tổng kết không thể nào đọc được hết sách báo xuất bản khắp thế giới, phải dựa vào những lời giới thiệu thiếu xác thực của báo địa phương. Hậu quả: khi giáo sư làm liệt kê thì tốt, nhưng khi đi quá việc liệt kê, như phê bình hay xa hơn nữa là nhận định tổng quát, thì ý kiến của giáo sư thường quá lạc quan, xa với thực chất.

Nhiều người được nhờ viết bài tổng kết thấy rõ khó khăn giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đã gặp, nên tránh né bằng cách chỉ bàn những nét chung, đưa ra những nhận xét về đặc điểm của sinh hoạt chữ nghĩa và dè dặt phỏng đoán chiều hướng của tương lai. Lối làm việc này không dựa vào các số liệu thống kê chính xác, mà cũng không dựa vào ghi nhận qua việc đọc sách. Có thể nói những bài tổng kết loại này dựa nhiều nhất vào ước vọng của người viết, và có sức thuyết phục hay không, do khả năng luận lý của người đó mà thôi.

Tôi nhớ đầu năm 1997, Ðài Phát thanh Úc có phỏng vấn tôi về tình hình văn học hải ngoại trong năm 1996. Tôi trả lời chung chung, trong đó có nêu ra hiện tượng các nhà văn nữ xuất hiện khá đông đảo trở lại sau đợt xuất hiện ồ ạt những năm 1983-1985. Tôi cũng nêu ra bốn cuốn sách có giá trị được xuất bản trong năm gồm: Marie Sến tiểu thuyết của Phạm thị Hoài, Thơ, v.v. và v.v. tiểu luận phê bình của Nguyễn Hưng Quốc, Những bài dã sử Việt của Tạ Chí Ðại Trường và Tuyển tập Hà Sĩ Phu. Bốn cuốn sách đều thuộc loại “giải ảo và đặt lại vấn đề”. Sau khi nêu hiện tượng xuất hiện của nhiều nhà văn nữ, tôi tiên đoán văn chương hải ngoại năm sau sẽ phát triển, giống như đã phát triển sau năm 1985. Còn cô Minh Nguyệt làm việc cho Ðài Phát thanh Úc thì, sau khi nghe tôi nêu tên bốn cuốn sách hay, liền tiên đoán là năm 1997 văn chương hải ngoại sẽ dứt khoát bỏ những đường mòn, mạnh dạn đổi mới. Những tiên đoán lạc quan ấy, như thời gian đã chứng minh, đều sai. Ðều lạc quan tếu. Vì nghĩ cho cùng, cả tôi lẫn cô Minh Nguyệt đều không dựa vào dữ liệu chính xác nào cả, chỉ mong ước sao thì đoán vậy.

Phải thú nhận ngay từ bây giờ là theo nhận định chủ quan của tôi, có “nhiều ước mộng không thành”. Từ ngày tôi trả lời phỏng vấn của Ðài Phát thanh Úc, văn chương hải ngoại không cất cánh theo đoàn nữ binh tiên phong, và cũng không chìu ý cô Minh Nguyệt, không hăng hái đổi mới hay chuyển hướng. Tình trạng xuất bản những năm gần đây chẳng những không cải tiến mà còn sa sút hơn. Những nhà xuất bản uy tín trước đây ngày càng ngại bỏ tiền xuất bản sách, nhất là loại sách sáng tác như thơ, tiểu thuyết. Số ấn bản trung bình chỉ lên đến 500, nghĩa là nếu bán hết may lắm lấy lại đủ vốn, nên dù sách xuất bản dưới nhãn hiệu nào, đa số trường hợp chính tác giả phải bỏ tiền in lấy sách mình. Tình trạng ấy đưa tới một loạt những phụ ứng: sách ra nhiều nhưng chất lượng không bao nhiêu, nhu cầu quảng cáo để bán sách giết chết ngành phê bình, độc giả đứng trước rừng sách nhiều mầu không biết nên mua sách nào sau nhiều lần “trao thân lầm tướng cướp” quyết định không mua sách nữa, không có người mua sách thì ngành xuất bản sa sút kéo theo động cơ thúc đẩy việc sáng tác… Cái vòng lẩn quẩn không lối thoát ấy có thể xảy ra cả trong nước, nhưng ở hải ngoại trầm trọng hơn do tình trạng lão hóa của sinh hoạt chữ nghĩa.

Thật vậy, ở đâu lực lượng nòng cốt để văn chương phát triển là lớp trẻ, học sinh, sinh viên, công chức, quân nhân. Như Tolstoi từng viết, những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến nhưng người cầm súng tấn công lúc nào cũng là thanh niên. Văn chương cũng thế. Mơ ước văn chương cất cánh hay trẻ trung hoá, mong ước xông pha vào những con đường mới mẻ kỳ thú… chỉ có thể biến thành hiện thực khi có giới trẻ tham gia vào cuộc xuống đường. Giới trẻ ở hải ngoại có tham gia vào sinh hoạt chữ nghĩa không?

Hiện không có ai làm một cuộc thống kê khoa học để xác định số tuổi của tác giả và độc giả Việt, nhưng chỉ cần nhìn quanh các cuộc họp mặt ra mắt sách, triển lãm tranh, thảo luận văn chương, tưởng niệm văn thi sĩ quá cố… chúng ta cũng thấy kết quả khá trung thực của chuyện thống kê. Trong các sinh hoạt trên, lớp già trên 50 chiếm đa số tuyệt đối. Lác đác vài người lứa tuổi 40. Họa hoằn lắm mới có những người 30. Còn lứa tuổi 20? Ðừng chờ mất công! Cũng phải thôi!

Những bạn trẻ lứa tuổi hai mươi, khi sinh ra, chế độ Việt Nam Cộng Hoà sắp hay đã sụp đổ. Nếu họ theo cha mẹ di tản ra khỏi nước từ 1975 thì bây giờ may lắm họ chỉ bập bẹ được vài câu tiếng Việt thông thường, không đủ trình độ đọc sách viết sách tiếng Việt. Những bạn ở lại Việt Nam mới qua sau này (vượt biển, đoàn tụ gia đình, HO..) thì được giáo dục trong hệ thống giáo dục cộng sản. Họ đâu có biết Bùi Giáng, Nguyên Sa, Mai Thảo là ai đâu mà cha mẹ khuyến dụ được họ đi tham dự buổi tưởng niệm các văn thi sĩ nổi tiếng này!

Lứa tuổi ba mươi có một quá trình trưởng thành phức tạp hơn: hoặc họ là những học sinh tiểu học ở miền Nam trước 1975; hoặc họ là những thanh niên trên hai mươi từng sống thời hoa niên của mình dưới chế độ cộng sản. Lớp sau tuy rành tiếng Việt nhưng không trải qua cùng một môi trường văn nghệ với lớp cha chú trong gia đình. Cha mẹ họ mê tiếng hát Thái Thanh, Kim Tước, Quỳnh Giao, Lệ Thu, Thanh Lan… họ mê tiếng hát Nhã Phương, Bảo Yến, Cẩm Vân, Hồng Nhung… Lớp trước đến Mỹ, Pháp, Canada, Ạc lúc còn học tiểu học, dĩ nhiên đã hoàn toàn Âu hóa. Cả hai thành phần của lứa tuổi ba mươi hiện đang phải học tập, đấu tranh gay go để hội nhập và thăng tiến trong xã hội mới. Phần lớn họ là những chuyên viên kỹ thuật. Muốn giữ chỗ làm, muốn thăng cấp, họ phải dốc toàn lực mới bắt kịp những tiến bộ phi mã của kỹ thuật cao cấp hiện đại. Họ không còn thì giờ cho cộng đồng, nói chi tới sinh hoạt văn hóa. Cùng lắm, họ chỉ đủ thì giờ lên Net bấm chỗ này một chút rồi bấm qua chỗ kia, thưởng thức văn nghệ dân tộc khơi khơi theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”. Các bạn trẻ trên dưới ba mươi ra đi từ Miền Bắc hiện ở các nước Âu châu (nhiều nhất là Ðức và các nước Ðông Âu) chỉ mới góp phần vào sinh hoạt chính trị, chưa tham dự nhiều vào sinh hoạt văn hóa.

Tính sổ, chỉ còn lại những người lứa tuổi bốn mươi, năm mươi và sáu mươi ra đi từ Miền Nam là nòng cốt của sinh hoạt chữ nghĩa hiện nay. Văn nghệ (từ sáng tác đến thưởng ngoạn) đòi hỏi một sự đồng thuận đồng cảm cao hơn các hoạt động xã hội khác như kinh tế, chính trị. Phở nấu ngon thì gốc Hà nội hay Sài Gòn cũng sẵn sàng lái xe hằng trăm dặm tới thưởng thức cho được. Những cuộc biểu tình chính trị có thể qui tụ được nhiều thành phần khác nhau. Nhưng đọc say mê một cuốn tiểu thuyết thì đòi hỏi người đọc đã cao, đòi hỏi người viết càng cao hơn. Phải cùng một tần số mới có thể đọc nhau, trong khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại phân hoá manh mún vì nhiều lẽ. Cho nên thay vì cộng (để làm tổng kết), chúng ta thử làm một phép trừ. Trừ đi cộng đồng người Việt gốc Hoa, trừ đi lớp trẻ không biết tiếng Việt, trừ đi những người chỉ nói mà không đủ trình độ đọc thông tiếng Việt, trừ đi những người đọc được tiếng Việt nhưng không đủ bề dày học vấn để đọc và thưởng thức văn chương, trừ đi những người chỉ quan tâm đến mục tiêu chính trị trước mắt và xem văn chương là điều xa hoa phù phiếm, trừ đi những người mải lo chạy theo nhịp sống hối hả của xã hội kỹ thuật cao cấp, trừ đi những người đã quá chán ngán chuyện đời muốn dành thời gian ít ỏi còn lại cho việc tìm kiếm một giải thoát tâm linh, trừ đi những người chỉ còn đọc được những chữ lớn bằng ngón tay cái… Số người viết và người đọc còn lại bao nhiêu? Không có tiếp sức của giới trẻ, văn học hải ngoại tất nhiên phải bị lão hóa.

Tiếng Việt ở hải ngoại trong tình trạng cô lập với chính quốc sẽ giữ y nguyên trạng hoặc hao hớt đi từ tiếng Việt thông dụng ở Miền Nam năm 1975. Ngay bây giờ, đọc sách báo trong nước, chúng ta đã không hiểu được ý nghĩa của một số ngôn ngữ đường phố, những tiếng lóng. Ngược lại, người Việt trong nước cũng không hiểu được cách pha tiếng Anh tiếng Pháp ngày càng nhiều vào đối thoại thường ngày của người Việt nước ngoài. Sự biến đổi ấy tất nhiên phải xảy ra, không thể khác được. Năm 1994 có dịp qua thăm Montréal vùng nói tiếng Pháp của Canada, tôi ngạc nhiên đọc thấy nhiều bảng hiệu in chữ Pháp nửa nạc nửa mỡ, đầu thì gốc Pháp nhưng đuôi lại gốc Anh. Các bạn tôi ở Montréal còn cho biết là người Montréal tuy đọc thường xuyên sách báo tiếng Pháp mang từ Paris sang, nhưng nói một thứ tiếng Pháp mà người Paris không hiểu dễ dàng. Ðiều đó có xảy ra cho tiếng Việt hải ngoại hay không?

Có. Nhưng xảy ra chậm hơn tiếng Pháp vùng Montréal, Québec, nhờ tiến bộ của ngành tin học. Internet đã thu nhỏ thế giới lại rất nhiều. Ranh giới chính trị không còn đủ sức chia rẽ, cô lập, bế quan tỏa cảng như trước. Với một phí tổn rất thấp, người ta có thể mặt đối mặt nói chuyện với nhau từ hai mút của địa cầu, thì các ranh giới đều phải nhoè đi, các khác biệt dễ bị san bằng. Sự cảm thông dễ dàng hơn khi thông tin dễ dàng và rẻ đến nỗi có thể ở trong tầm tay mọi người. Một thực tế khó có thể mơ ước vài năm trước: một bạn đọc ở Việt Nam, nếu muốn, có thể lên Internet đọc một bài thơ đăng báo ở ngoài nước, nghe bài hát mới nhất của nữ ca sĩ Khánh Hà, xem cuốn video mới nhất của Trung tâm Thúy Nga. Trao đổi thư từ và bài vở giữa người viết người đọc trong và ngoài nước hiện nay cũng dễ dàng. Cái họa lão hoá trong giới thưởng ngoạn nghệ thuật bớt đi, vì chúng ta có độc giả, thính giả, khán giả trẻ trong nước tiếp sức. Nhờ Internet, người làm thơ, viết truyện hải ngoại đã bắt đầu nhận thức ra một điều vô cùng quan trọng: là sáng tác không phải chỉ để người Việt ngoài nước đọc với nhau, mà còn có một giới thưởng ngoạn lớn lao bên kia đại dương lặng lẽ theo dõi, định giá và phản ứng theo cách riêng của họ. Viết là để cho cả dân tộc trong lẫn ngoài nước đọc, không phải chỉ dành cho một nhóm nhỏ của một cộng đồng ngày càng thu hẹp.

Theo tôi, nhận thức ấy là then chốt để giải quyết tình trạng lão hóa trong sinh hoạt văn nghệ hiện nay ở hải ngoại. Nhận thức ấy đặt ra những nghi vấn mới cho những vấn đề người cầm bút thường đặt ra lâu nay: Viết cho ai? Viết cái gì? Viết thế nào? Nếu chỉ viết cho những người cùng cảnh ngộ lưu vong như chúng ta đọc, thì chúng ta cứ viết như lâu nay vẫn viết: tiếc nuối một thời hoàng kim đã mất, xót xa trăn trở với những khổ ải đã trải qua, lật từng trang album bồi hồi với những kỷ niệm, mơ ước ngày trở về có khải hoàn môn dựng trên khắp nẻo đường và gặp lại một quê hương y nguyên như thời hoàng kim cũ… Còn nếu phải viết cho cả những bạn đọc còn trẻ trong nước đọc, thì viết cái gì? Viết thế nào?

Những câu hỏi ấy cũng đặt ra cả cho người viết trong nước. Lâu lâu xem một tạp chí hay tuần báo văn chương trong nước, nhất là vào các dịp lễ lạc, tôi cảm thấy bị xúc phạm khi đọc những hồi ký hay truyện ngắn của những cây bút Miền Bắc. Trong say sưa của kẻ thắng, họ kể những chiến công, thành tích của quá khứ, điều đó không có gì đáng bàn. Ðiều đáng bàn, là khi nói tới đối phương (là quân đội Miền Nam, người dân Miền Nam), họ vẫn dùng những nhân xưng miệt thị như “y”, hắn”, “chúng”, bọn ngụy”, “thằng ngụy” y như trong thời chiến tranh. Rõ ràng những người viết văn ấy viết cho họ đọc với nhau, bất kể những thay đổi trong gần một phần tư thế kỷ qua. Họ không nghĩ tới lòng tự ái, tới nhân phẩm những người đọc không cùng hàng ngũ với họ, không cùng thế hệ của họ. Nếu họ nhớ những gì mình viết ra in ra, một tuần sau, một tháng sau có những người họ gọi bằng “thằng” bằng “bọn” đọc, ngòi bút say máu của họ phải khựng lại. Rồi họ cũng phải băn khoăn tự hỏi: Viết cái gì đây? Viết thế nào đây?

Trả lời những câu hỏi ấy không dễ, khi nhà văn muốn khối độc giả của mình mở rộng từ hải ngoại tới quốc nội. Chẳng những thế, còn phải kể tới các biện pháp kiểm soát và ngăn chặn thông tin của chính quyền, phản ứng của những thế lực muốn duy trì nguyên trạng. Người cầm bút bình thường, khi phải đối đầu với biết bao trở lực (trong khi sự bù đắp cho bao nhiêu công lao sáng tạo hoặc không có hoặc chẳng bao nhiêu) thường không muốn rước thêm những điều bất trắc. Thôi, cứ theo con đường cũ cho yên thân.

Văn chương đang thành ông cụ lỗi thời. Chẳng mấy chốc, cụ ngã bệnh… rồi ngậm cười nơi chín suối.

Nguyễn Mộng Giác

   Số lần đọc: 5114

Tác Phẩm

BÀI KỀ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây