Không chịu được cảm giác bứt rứt bồn chồn, nên thay vì ngồi trực ở đài để nhận tin tức các nơi, Nam quyết định đạp xe về nhà. Cảnh căn nhà nhỏ hoang vắng như vô chủ. Cửa trước để ngỏ, chỗ bàn nước không có ai cả. Bếp núc cũng nguội lạnh. Nàng đi vào hành lang. Trong phòng ông Văn, có ánh đèn sáng. Nam hồi hộp lo sợ, rón rén bước thật nhẹ cho tiếng guốc khỏi vang lớn. Nàng nâng nhẹ cánh cửa phòng mình để khỏi gây nên tiếng bản lề kêu cút kít như thường lệ. Nhưng cánh cửa vẫn tạo một thứ tiếng động rên siết rền rĩ. Nam nín thở chờ nghe tiếng cha hỏi ai đó. Không có gì!
Nàng thở ra nhẹ nhõm, se sẽ đóng cửa lại, vội vã thay quần áo. Lúc cởi bộ quần áo lót đẫm mồ hôi ra, Nam mới nhớ ý định về nhà để tắm giặt lúc rời đài phát thanh.
Nàng lục tủ tìm đồ lót, bộ quần áo sạch, cái khăn tắm, và cục xà phòng. Quế ở chung phòng với Nam nên trong phòng, ở đâu cũng thấy những đồ dùng đắt tiền bán trong P.X Mỹ, từ xấp giấy lau mặt hiệu Kleenex cho đến những loại thuốc gội đầu, nước hoa, hộp tăm tròn nhọn ở hai đầu, hộp tăm ngoáy tai vấn bông sẵn. .. Nam định đem nguyên cả hộp giấy lau có tẩm nước hoa Kleenex vào phòng tắm, sau nghĩ sao, lại thôi. Nàng ngần ngừ khá lâu mới quyết định bóc một viên xà phòng thơm hiệu Dove của Quế.
Nam ôm tất cả các thứ quần áo lỉnh kỉnh rón rén đi qua cửa phòng cha, để xuống phòng tắm dưới bếp, bật đèn lên. Nàng kiểm soát lại khóa phòng tắm. Cái khóa cửa bị nước ẩm không còn dùng được nữa, Ngữ đã thay bằng một cái móc sắt móc vào cái khuy tròn. Nam ấn cánh cửa cho thật sát vào khung, móc khuy lại. Nhưng hai tấm bản lề rỉ sét cứ đẩy bật cánh cửa gỗ ra, đóng thế nào vẫn cứ hở. Nam bậm môi lấy sức đóng cửa thật chặt, kiểm soát lại cái móc cửa, rồi bắt đầu cởi bỏ quần áo.
Nàng hồi hộp nôn nao muốn biết thân thể mình đã thay đổi thế nào sau khi trao thân cho Tường.
Nàng nhìn đăm đăm hình dáng khỏa thân của mình trong gương. Mái tóc thưa thớt dán chặt vào đầu, không che nổi khuôn mặt ốm. Ðôi mắt hớt hải chới với. Cái cổ ốm. Hai cánh xương quai xanh nổi rõ dưới ánh điện 70 watts. Ðôi vú nhỏ. Nàng ngờ ngợ hình như trên ngực mình có vài vết bầm. Nam cúi xuống, quan sát thật kỹ hai đầu vú. Không có dấu hiệu gì đáng lo ngại, nhưng đột nhiên Nam nhớ lại những cái hôn điên dại lên ngực Nam của Tường đêm trước. Nàng đỏ mặt, mạch máu đổi nhịp dồn dập. Nàng cúi xuống thêm, nhìn kỹ phần dưới thân thể. Cảm giác nhức buốt nhớp nháp lại về. Nam sờ nhẹ tay lên hai vế, sẽ sàng lần dò từng khoảng da thịt như phiêu lưu vào một vùng xa lạ. Ở phía trong vế bên trái, có một lớp váng ram ráp như da khô bị bong ra khi trời lạnh. Và Nam hiểu!
Không dám nghĩ ngợi thêm nữa, nàng mở vòi sen cho nước lạnh xối lên đầu, lên thân thể. Rồi Nam lấy viên xà phòng thơm chà xát khắp mình mẩy, vuốt xoa cho lên bọt trắng, xối nước, rồi lại chà xát xà phòng… Nước lạnh không giúp cho Nam quên được những gì xảy ra đêm qua, kể cả mùi thơm của xà phòng và mùi hương nhè nhẹ tỏa ra từ chiếc khăn tắm.
Có tiếng chân bước bên ngoài. Nam nín thở lo sợ, vội mở vòi sen. Ông Văn hỏi:
– Nam trong đó hở con?
Nam nuốt nước bọt cho bớt hồi hộp, tắt vòi sen, rồi đáp:
– Thưa ba, vâng ạ!
– Về hồi nào đấy?
– Thưa ba, con mới về.
Ông Văn không nói gì thêm, bỏ đi lên nhà trên. Nam vội lau mình, mặc quần áo vào, mở khuy cửa phòng tắm. Nàng lật bật mở mãi không được. Phải đứng một lúc cho tay bớt run, Nam mới mở được cái móc ra khỏi khuy.
Nàng đến trước tấm gương gắn trên lavabo rửa mặt chải lại tóc, nấn ná không muốn gặp cha ngay bây giờ. Chờ một lúc lâu, Nam mới rón rén về phòng mình. Lúc đi ngang qua cửa phòng cha, Nam giật bắn người khi nghe ông Văn gọi:
– Nam, vào đây ba hỏi.
Nàng sợ quá, nghĩ cha mình đã biết hết mọi chuyện. Nhưng Nam yên tâm ngay khi thấy nét mặt cha bình thường, chẳng những thế, gần như ân cần cởi mở y như thời hai cha con vẫn thường tâm sự thân thiết chân thành với nhau. Ông Văn đợi Nam ngồi lên cái ghế gỗ trước bàn làm việc, mới hỏi:
– Con có mặt lúc đó không?
Nam ngơ ngác hỏi lại:
– Thưa ba, lúc nào ạ?
– Lúc họ đốt thư viện Mỹ!
Nam thở phào nhẹ nhõm. Ông Văn tưởng Nam thở dài buồn rầu vì không đồng ý với chuyện đốt phá thư viện, nện hăng hái nói:
– Tại sao lại làm như vậy? Sách vở có tội tình gì? Ba cho rằng một cuốn sách, dù là cuốn sách dở nhất của một tác giả vô danh nào đó, dù chứa toàn những lời điên khùng của một tên cuồng chữ mê sảng, vẫn giá trị gấp triệu lần hơn những lời hoa mỹ rỗng tuếch trong các hiệu triệu huấn từ hoặc nghị quyết tuyên cáo của bọn làm chính trị. Những tên say mê quyền lực, những tên mù quáng tự cao tự đại không bao giờ có can đảm ngồi xuống để viết lấy một trang sách. Đấy là một việc làm ngược đời, không giống ai. Một việc bạc bẽo, thui thủi, cô độc. Nhưng chính nhờ cô độc mà mỗi cuốn sách đều có ẩn chứa một thứ chân lý. Những cuốn sách giúp cho người ta thấy cuộc đời không đơn giản, nhờ thế ai cũng phải khiêm nhường, không dám kiêu căng sốc nổi. Sách vở còn nối dài được cuộc sống vốn ngắn ngủi, mở rộng được tầm nhìn vốn chật hẹp phiến diện. Con nghĩ xem, nếu cuộc đời này… Ủa, con có nghe ba nói không?
Nam thích thú thấy cha thao thao bất tuyệt nói chuyện sách vở với mình như nói với một người bạn, mỉm cười sung sướng. Ông Văn lại tưởng con chế giễu sự hăng hái khác thường của mình, chợt khựng lại, hỏi Nam:
– Con đồng ý với ba chứ?
Nam dịu dàng đáp:
– Thưa ba, ba nói đúng lắm. Ba nói nữa đi!
Ông Văn cười, nét mặt bẽn lẽn như đứa trẻ con không thuộc bài, ngước lên hỏi Nam:
– Ba… ba nói đến đâu rồi?
Nam nhắc:
– Ba đang nói tới chỗ sách vở mở rộng tầm hiểu biết của con người. ..
Ông Văn lấy lại hăng hái, giọng nhiệt thành:
– Phải. Sách là kho chứa của chân lỷ. Vậy thì tại sao lại đốt sách? Bảo sách Mỹ a tòng trong vụ đàn áp này chăng? Bảo thơ Whitman xúi giục lính Mỹ đứng về phe ông Kỳ ông Thiệu chăng? Bảo vì ảnh hưởng tư tưởng của Thoreau mà tổng thống Johnson không chịu phúc đáp yêu cầu can thiệp của thầy Trí Quang chăng?
Nam nhận thấy phải minh xác cho thượng tọa vừa bị cha nhắc tới:
– Thầy Trí Quang có đến ngăn cản đó chứ ba, nhưng họ vẫn đốt.
Giọng ông Văn tức tối:
– Họ là ai? Có con trong đó không?
Nam vội đáp:
– Không. Lúc đó con đang ở bên các sư sãi tuyệt thực trước tòa lãnh sự Mỹ. Lúc con về đường Lê Thánh Tôn, lửa đã bắt đầu tàn rồi. Lũ trẻ con bắt đầu ùa đến dập tắt lửa để cướp những cuốn sách chưa kịp cháy. Con…
Ông Văn cắt lời Nam:
– Không phải là cướp. Phải nói là cứu. Chính lũ trẻ vô tư còn giữ được tâm hồn trong trắng nên vô tình hiểu được giá trị của sách. Chúng nó cứu sách đấy.
Nam thấy cha quá khích một cách dễ thương, mỉm cười gật đầu cho cha bằng lòng.
Ông Văn hỏi tiếp:
– Thế còn thằng Tường? Lúc đó nó ở đâu?
Nam vội vã nói:
– Không! Anh ấy… lúc đó anh ấy…
Nam không nói tiếp được cho hết câu, vì chợt nhớ rằng chính nàng cũng không biết Tường có hay không có tham dự vào vụ đốt thư viện Mỹ. Chẳng những nàng mơ hồ không biết rõ, mà qua cách suy nghĩ của Tường, qua cách nói của Tường mỗi lần đề cập tới Trung tâm Văn hóa và lớp Anh ngữ do người Mỹ tổ chức, quản trị tại Huế, nàng ngỡ rằng Tường đã chủ động trong việc đốt phá này. May mắn là ông Văn bắt qua chuyện khác:
– Người Mỹ đã rút hết ra khỏi Huế, con biết chưa?
Nam chậm rải đáp, e ngại ông Văn lại dẫn câu chuyện đến chỗ bất lợi cho Tường:
– Thưa ba, con biết rồi!
Giọng ông Văn hơi gắt gỏng:
– Họ rút là phải! Sau vụ đốt sách…
Nam bực, lần đầu cãi lại cha:
– Thưa ba không phải thế. Họ đã chuẩn bị rút khỏi Huế từ lâu. Có thể là ngay từ hồi họ dùng máy bay chở Thủy quân Lục chiến cho ông Kỳ tấn công Ðà nẵng lần đầu. Con nghĩ… con nghĩ như thế càng hay!
Ông Văn vội hỏi:
– Tại sao vậy?
Giọng nói của Nam đanh lại, khiến ông Văn ngỡ ngàng nhìn con:
– Vì nhờ thế mà chiến tuyến được rõ ràng. Không còn lấp lửng mơ hồ gì nữa. Một bên là quân ông Loan và lính Mỹ sắp vượt đèo Hải vân ra đây bao vây tấn công Huế. Một bên là tất cả những người bị ở trong vòng vây. Trong đó có ba, có con, có… có…
Nam xúc động quá không nhớ được tên ai nữa. Nàng nhớ tới Tường, nhưng không nhắc tới, vì sợ ông Văn nhân đó lại mỉa mai cay đắng hoặc công kích Tường. Ông Văn dàu dàu nét mặt, im lặng hồi lâu, rồi nói:
– Phải. Mọi người đều bị đẩy vào vòng. Con biết không?
Nam hỏi, lòng dịu lại:
– Ba bảo gì con?
Ông Văn thở dài trước khi đáp:
-Lúc nãy thằng Ngô với thằng Lãng về đây lấy một ít đồ ăn và quần áo để vào Lăng cô đấy!
Nam giật mình kinh ngạc, vội hỏi cha:
– Thật hở ba? Vào đó làm gì?
Ông Văn không đáp ngay. Ông nhìn đăm đăm vào cây bút Bic đang cầm trên tay. Nam thấy trang giấy trên bàn chằng chịt những hình thù ngoằn ngoèo rối rắm. Một lúc lâu, ông Văn đáp:
– Con biết rồi còn hỏi ba! Chúng nó đều ở trong đoàn Thanh niên Quyết tử. Chúng nó là cảm tử quân! Hồi bắt đầu kháng chiến chống Pháp, có lần ba đã tình nguyện ôm “bom ba càng” lăn vào xe tăng giết giặc. Chuyện đó dễ hiểu. Chuyện bây giờ, ba không hiểu được. Ba già rồi!
Nam lo lắng hỏi:
– Trước khi đi Lãng nó có nói gì với ba không?
Ông Văn chậm rãi đáp:
– Không. Nó chỉ hỏi mượn ba cái khăn phu-la. Bảo chắc trong đó lạnh. Con đừng nói chuyện đó cho má biết, má lo thêm, vô ích.
***
Bà Văn và Quế đi chợ về khiến căn nhà ồn ào hẳn lên. Giọng nới của Quế rốn ráng líu tíu, đến nỗi ở trong phòng ông Văn vẫn nghe rõ tiếng Quế:
– Chán quá hở má! Chợ búa gì mà như đi tranh giành cướp giật.
Tiếng bà Văn hỏi Quế:
– Ba mày đi đâu mà bỏ nhà trống thế này?
Nam vội chạy ra ngoài phòng trước. Quế trố mắt nhìn Nam như một hiện tượng lạ, giọng nói đùa cợt vô tâm:
– Ui chao! Bà chị “chuyên viên tranh đấu” về hồi nào vậy?
Nam đáp:
– Mới về. Má đi chợ?
Bà Văn được dịp than van:
– Đi chợ! Đi chen lấn ăn xin thì có! Ai đời có một giỏ trứng vịt muối mà cả vạn con người ùa tới giành giật. Cái mặt con mụ hàng trứng trông phát ghét. Con nghĩ coi. Nhét tiền vào túi nó, nó móc ra quăng trả vào mặt mình. Ngày thường thứ trứng đó cho không má cũng không thèm lấy.
Quế cười, bảo mẹ:
– Tại thiên hạ đồn sắp đánh nhau to đó má! Con cũng lanh tay lẹ mắt lắm mới lấy được bao gạo mười ký. Má biết không, con đưa tiền, mụ ta cũng nhất định không lấy, bảo gạo để dành ăn không bán. Tới lúc người ta bu đông quá, mụ ta la bai bải. Con lấy được bao gạo, trả tiền mãi không được, tức quá không thèm trả nữa. Hì hì! Gạo cứu trợ chiến tranh mà má!
Nam cau mày trách:
– Mày làm vậy không được!
Quế cãi:
– Chứ chẳng lẽ ở lại tới tối để năn nỉ trả cho được tiền!
Rồi Quế nhíu mũi làm bộ đánh hơi, lém lỉnh hỏi lại:
– “Bà” xài hết cục xà phòng Dove của “tui” phải không?
Nam đỏ mặt lính quýnh, khiến bà Văn cũng phải chăm chú nhìn vẻ khác thường của con. Thấy mẹ nhìn mình chăm chăm, Nam càng lúng túng hơn. Bà Văn hỏi:
– Mới tắm hả?
Nam vội phân trần:
– Mấy hôm liền con không tắm giặt được gì cả!
Quế hỏi:
– Bữa nay chị rảnh à?
Nam đáp cho qua:
– Ừ, rảnh.
Quế lại hỏi:
– Thấy mấy ông mấy bà tranh đấu đi lại lăng xăng, súng ống lỉnh kỉnh, sao chị khơi khơi vậy?
Nam không biết phải trả lời em thế nào cho xuôi, chỉ đáp:
– Tao về một chút rồi lên lại!
Bà Văn hỏi:
– Hồi chiều bên đó cháy cái gì mà khói mù mịt vậy?
Nam đáp:
– Họ đốt sách ở thư viện Mỹ đó má!
Quế vỗ tay reo:
– Ờ, đốt cái gì chớ đốt sách là em hoan hô hết mình. Em…
rồi chợt nhớ có ông Văn ở nhà, Quế ngưng lại, le lưỡi, liếc về phía phòng ông Văn, hạ thấp giọng nói với mẹ và chị:
– Không biết ba có nghe thấy không! Cầu trời ba không nghe thấy. Nếu không tối nay phải nghe ba “lên lớp”, mệt lắm!
Nam lừ mắt nhìn Quế, định trách em bất kính đối với ba. Nhưng nhớ lại chuyện đêm qua, nàng e ngại nhìn mẹ, rồi liếc nhìn Quế. Ba mẹ con chia nhau mang những thứ vừa giành giật mua được ở chợ vào sau bếp. Những gì xảy ra ngoài phố, trên chùa, trong khuôn viên đại học, những sư sãi tuyệt thực âm thầm phản đối chính sách của Mỹ, những cuốn sách âm ỉ cháy giữa bốn bức vách thư viện ám khói, những đội quyết tử ôm súng núp ở các ngả ba ngả tư đón “giặc”, những công chức quân nhân thao thức tìm đường thoái lui kín đáo, những bản đồ hành quân chi chít mũi tên xanh mũi tên đỏ, những trăn trở khắc khoải một đêm làm bạc cả mái tóc đen …, tất cả những cái phức tạp ấy như chỉ xảy ra ở chỗ khác, không phải ở đây.
Nguyễn Mộng Giác
Số lần đọc: 133