Nguyễn Mộng Giác dưới tháp Eiffel
Võ Phiến có hai bài tùy bút viết về người Bình Định.
Bài thứ nhất tựa đề Anh Bình Định và bài thứ hai, Người Bình Định.
Bài thứ nhất (không ghi ngày) viết về sự “hấp dẫn” của “người anh” Bình Định với “người em” Phú Yên, qua câu ca dao:
“Anh về Bình Định chi lâu,
Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng“.
Và ông tuyên bố chắc nịch: “Gái Phú Yên không tỏ ra đa tình với một ai khác, chỉ đa tình với trai Bình Định mà thôi”.
Ông Võ Phiến là người Bình Định trăm phần trăm và ông đã quả quyết như vậy, thì phải tin thôi, cãi sao được?
Ông giải thích bằng lịch sử, theo lối nói nhũn của ông thì “đó là những suy đoán vu vơ“. Theo “những suy đoán vu vơ” ấy, thì dân tộc ta có hai đợt Nam tiến: Đợt thứ nhất, gồm toàn bọn Bắc vô như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tấn (gốc Thanh Hoá), Lê Đại Cương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ (gốc Nghệ An), v.v…, đợt này kéo dài đến thế kỷ XVI.
Đợt hai, từ khi Nguyễn Hoàng lấy được Phú Yên, biên giới Nam Bắc đã phân chia rõ rệt, bọn Bắc không thể tự tiện kéo vào được nữa, mà chính dân Bình Định kéo xuống phía Nam. Vì vậy mới có sự “khăng khít” giữa người “anh Bình Định” với người “em Phú Yên”, kết quả những “anh em” này sinh con đẻ cái, thành “thế hệ thứ nhì”, thoát thai câu ca dao:
“Anh về Bình Định thăm cha,
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hoà thăm em.”
Vậy là thêm một từng lớp “anh em” đợt nhì, có duyên nợ tiền kiếp! Lập luận của ông Võ Phiến giúp ta hiểu đôi chút về những “succès” của các “người anh” văn nghệ Bình Định đối với các người em văn nghệ phái nữ nói chung và các “người em” Phú Yên nói riêng.
Bài thứ hai tựa đề “Người Bình Định” (viết tháng 10/1973), mở đầu ông giới thiệu ngay Nguyễn Mộng Giác, một người cùng quê với ông. Ông Võ Phiến giới thiệu như vậy là đã có chủ đích: Ông coi Nguyễn Mộng Giác như một người Bình Định “tiêu biểu”. Sự tiêu biểu này ông không nói ra, nhưng đọc hết bài sẽ thấy. Nên nhớ năm 1973, Nguyễn Mộng Giác mới viết, chưa nổi tiếng. Đến 1974, Nguyễn Mộng Giác mới nổi tiếng vì được giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam với truyện dài Đường một chiều.
Như thường lệ, ông Võ thường nói vòng vo tam quốc trước khi đưa ra những nhận xét tinh tế, lạ và đúng, chưa ai nghĩ ra bao giờ, như:
– “Kể từ Bình Định vào Nam, một giọng nói khác, một loạt tiếng nói khác“. Ý ông muốn nói: bọn răng, rứa, mô, tê, chừ… rủ nhau vào Nam, đến chân đèo Bình Đê thì bị chặn đứng cả, chẳng tên nào đi lọt.
– Vẫn theo lập luận “vu vơ” của ông: Dân Quảng Nam, Quảng Ngãi (đúng ra là Quảng Nam thôi) lúc nào cũng hăm hăm chỉ chực “nổi lên”, “vùng dậy”, còn dân Bình Định êm rơ, chẳng tha thiết gì đến chuyện phản kháng phảng khiếc. Và ông gọi đức tính ấy là “thàn hậu“[1]. Lần đầu tiên tôi học được chữ thàn hậu, tiếng này ngoài Bắc không có, trong Nam cũng không.
Nguyễn Mộng Giác và Nguyễn Bá Trạc
Tiếp đó, để giải nghiã hai chữ thàn hậu bằng thơ, ông trích hai câu thơ Quách Tấn:
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gửi vào thơ, nghĩ tội thơ
Rồi ông phê rằng: “Nghĩ tội thơ!”, cái nhân ái đến rụt rè ấy, ở địa phương gọi nó là đức tính “thàn hậu”. Con người thàn hậu vốn dè dặt, kín đáo, âm thầm trong sự sầu đau thương nhớ; chính con người ấy mới càng “tội” đa!”[2]
Cuối cùng ông trở về với Nguyễn Mộng Giác: “Ở Nguyễn Mộng Giác cũng vậy. Ngay từ những thiên truyện ngắn đầu tiên, anh đã có cái phong độ chín chắn, mực thước, có cái kín đáo, âm thầm, anh đã lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng.“[3]
Nhận xét về Nguyễn Mộng Giác, ngay từ 1973, trên những bước đầu, quả chỉ Võ Phiến mới tinh tường như vậy.
Bài thư ba, có liên quan đến Bình Định và Nguyễn Mộng Giác là bài Tựa cho tập truyện ngắn Ngựa nản chân bon, ông viết tháng 11, 1983, tại Hoa Kỳ. Bài này không thấy ông in lại.
Tuy là tựa sách, nhưng Võ Phiến lại nói rất kỹ về người Bình Định. Ông triển khai những ý đã có trong bài Người Bình Định, lần này ông viết kỹ hơn, về tính tình, về giọng nói Bình Định… Đặc biệt ông trở lại và dừng khá lâu ở hai tiếng thàng hậu[4]:
“Cái cười của Quách tiên sinh[5] có vẻ trẻ thơ chỉ vì trông nó lành quá sức lành. Trông cái cười ấy, người ta thấy rõ trước mặt mình một kẻ hoàn toàn vô hại, không có chút mưu chút mẹo nào hết trơn. Một kẻ thàng.
Thàng là chữ Nguyễn Mộng Giác đã dùng trong một bài viết về tôi trên một số Văn đặc biệt[6] (….) Thàng là chữ riêng của người Bình Định, và cũng là chữ riêng để mô tả người Bình Định. Thàng cũng nói là thàng hậu; thàng hậu nghiã gần như hiền hậu, nhưng còn đi xa hơn hiền hậu nữa kia, vì nó có khả năng mô tả, hiền hậu thì không. Hiền hậu, thực thà là một đức tính, một nết hay; thàng hậu còn là một vẻ người hiển hiện ra bên ngoài, trông rõ mồn một. Người thàng, thàng từ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi. Mà người thàng thì trời ơi, trong trí nhớ của tôi, tôi mường tượng mọi người Bình Định đều thàng hết: anh Ba, chị Bốn, ông Bảy, bà Năm, cô Tư, cậu Tám vv… Hết thảy, không ai là không thàng. Muôn người như cùng một vẻ, một giọng.”[7]
Bất cứ kẻ nào không phải dân Bình Định, chưa bao giờ nghe nói đến chữ thàng, mà đọc được đoạn này của Võ Phiến, thì hết chối là tôi không biết thàng là gì. Cái sức mạnh trong lối nói “vu vơ” của Võ Phiến là như thế. Cái thàng trong ông là như thế. Cũng thì là thàng mà thàng của Võ Phiến, chỉ mới “vu vơ” nhưng nó bám, nó buộc, nó riết người ta vào chữ nghiã Bình Định của ông.
Vẫn trong bài Tựa này, còn một câu ngắn, độc giả dễ bỏ qua, nhưng nếu ai chú ý, sẽ thấy nó lạ lắm, phải là Võ Phiến mới đủ cao cường để biến các thứ trịnh trọng thành “vu vơ” như thế, ông viết:
“Cũng trong một bài báo Văn nọ, Nguyễn Mộng Giác nói đến những con người trông thì “thàng” nhưng kỳ thực lại “dữ”[8].
Tôi không được đọc bài báo Văn “nọ” của Nguyễn Mộng Giác, nhưng câu mà ông Võ trích thật đáng kể ở nhiều mặt.
Nếu chữ dữ của họ Nguyễn được hiểu là không lành, thì nó phản ảnh tính chất phản kháng ngầm trong con người Bình Định, kể cả… Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác nữa. Ông Nguyễn viết và ông Võ thấy, cả hai đều tinh tường, ông Võ bâng quơ nhắc lại lời ông Nguyễn, nhưng làm lơ như ông Nguyễn nói… người khác.
Còn nếu chữ dữ được hiểu là ác, thì nó cũng lại phản ảnh tính chất của một số người… Bình Định, lịch sử biết nhưng ông Võ không nhắc đến thôi.
Ví dụ, ông Võ Phiến nhìn thấy ở Quách tiên sinh cái cười “lành quá sức lành“, ông vô tư nhận xét tiên sinh là một kẻ “hoàn toàn vô hại, không có chút mưu mẹo gì hết trơn“.
Nhớ lại hồi tiên sinh kiện Trần Thanh Mại ở Huế năm 1942, vì chuyện dám viết cuốn Hàn Mặc Tử trước tiên sinh, dám quảng bá thơ Hàn Mặc Tử trước khi tiên sinh kịp in thơ Hàn, thì quả tiên sinh chẳng có thàng chút nào.
Mà đi trước tiên sinh còn một vị tiền bối nữa, bề thế hơn nhiều, đó là Quang Trung Nguyễn Huệ. Ông này không ai biết mặt ngang mũi dọc ra sao, cũng chẳng biết ông cười, ông đi, ông đứng có thàng không, người ta chỉ biết, mỗi lần ông ra Bắc là có một kẻ bị xé xác; lần đầu Nguyễn Hữu Chỉnh, lần sau Vũ Văn Nhậm, cách nhau có mấy năm, mà hai tay ấy đâu có phải vừa. Vậy nếu ông Huệ có thàng thì cũng là thàng theo kiểu “trông thì thàng nhưng kỳ thực là dữ“. Cái dữ này là dữ thật, chứ không phải chỉ là không lành thôi đâu.
Ai muốn tìm đọc Sông Côn mùa lũ để xem vốc vác ông Huệ thế nào, thì lại thấy ông Huệ có bề giống ông Giác, nghiã là ôn tồn, hiền lành, nhân hậu, đứng trước phụ nữ còn rụt rè nữa, hoá ra ông Giác chỉ tả cái thàng của ông Huệ.
Tóm lại, ông Võ Phiến khi nói người Bình Định đều thàng cả, là ý ông muốn nói đến những người thân thương của ông, đó là những nhân vật trong tiểu thuyết của ông, những anh Bốn thôi, ông Năm tản… Và khi ông tả nụ cười của Quách tiên sinh, người ta lại thấy hiện ra nụ cười của… chính ông: ông Võ Phiến có nụ cười rất thàng. Ông Võ Phiến mới đích thực là Người thàng, thàng từ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi“, để nói theo giọng Vũ Bằng ca tụng món ăn Hà Nội, mà ông Vũ lại dật tạm cái giọng này của Thạch Lam.
Tháng 7/1989, Nguyễn Mộng Giác đến Paris để ra mắt tập trường thiên Mùa Biển Động. Lần đầu tiên độc giả Paris thấy Nguyễn Mộng Giác bằng xương bằng thịt. Lúc đó tập Mùa Biển Động đã gây sóng gió bên Cali, người yêu cũng nhiều mà người ghét cũng lắm.
Dáng dong dỏng cao trên trung bình đối với người Việt, da mặt có những vết rỗ nhỏ, chắc hồi còn bé bị lên sởi, biến chứng. Cười tươi, rất thàng. Nhưng ở con người Bình Định này, điểm gây chú ý là đôi mắt.
Đôi mắt Nguyễn Mộng Giác, thường trú dưới cặp kính cận và bị cái cười chụp lên hai mí, lấp đi, làm nhỏ lại. Phải đợi đến lúc ông không cười, không nói, chăm chú nhìn đối tượng, thì mới thấy ở đó như có gì xuất thần, nó đen nhánh, lòng đen chiếm hơn 80%, nó “nói” tất cả, mặc dù ông không hề mở miệng. Có vài diễn viên thượng thặng -ví dụ như ở Pháp chỉ Simome Signoret- là có khả năng diễn xuất bằng mắt. Nhưng Nguyễn Mộng Giác không hề diễn xuất gì cả, ông cũng không đóng một vai trò nào. Ông sống bằng mắt và ông viết bằng mắt, đơn thuần là thế.
Tôi nhận thấy điều này ngay từ phút đầu giáp mặt đến phút cuối, vĩnh biệt, chiều ngày 4/6/2012, trước khi về Pháp. Ba lần thăm, lần nào cũng thế: nằm trên giường bệnh, Giác đã trút bỏ hết cả ngoại hình, từ thịt da đến xương cốt, tất cả đều đã rã, đã rời, tất cả đã bỏ Giác, đã theo nhau về chín suối trước khi Giác đi. Các tế bào còn đó, nhưng chúng đã chết từ lâu, chúng hiện hữu mà cũng như không. Riêng đôi mắt còn sống, nó nhất quyết ở lại với Giác như con kỳ mã trung thành với chủ, như Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp bảo vệ vua Hàm Nghi. Cặp kính cận cũng đã biến mất, nó không còn che lấp cái nhìn của Giác nữa. Đôi mắt tự do tung hoành trong không gian chật hẹp của căn phòng bệnh viện. Tất cả đều bị tẩy uế, trùng bị giết sạch, người vào thăm phải đeo mặt nạ, đi găng, khoác áo choàng, trừ hai con mắt. Họ và Giác cân bằng, hai bên đồng đẳng, chỉ có mắt đối mắt. Lúc đó mới thấy rõ ánh sáng kỳ dị trong đôi mắt đen như đêm hạ tuần của Giác và tôi bỗng hiểu.
Chính đôi mắt ấy đã “viết” các truyện ngắn và các bộ trường thiên. Giác “sinh hoạt” bằng đôi mắt, đôi mắt sai khiến và đôi mắt dò hỏi. Đôi mắt lưỡng lự, đôi mắt tiến thoái theo đúng thế trận bầy trước mắt. Người ta hay nhắc đến việc Giác tranh luận sôi nổi, tôi cho rằng những tranh luận chỉ để lấp đầy chỗ trống, chúng không có bề thế gì, so với phán quyết im lặng của đôi mắt. Giác “biết hết” nhân tình thế thái qua đôi mắt “thàng” mà “dữ” của anh. Đừng có giấu Giác, vô ích. Giác biết hết. Nhưng chẳng nói ra thôi.
Đôi mắt ấy đã thấu suốt tâm linh những người phụ nữ mà anh gặp và mô tả trong tiểu thuyết, từ tuổi dậy thì đến hồi đứng bóng. Không mấy nhà văn sành tâm lý phụ nữ như anh, ngoài Mai Thảo. Cái màu đen trong lòng mắt anh, lạ lắm, nó đen như mun và trong vắt như pha lê đến độ không nhìn thấy con ngươi, vì thế không ai “tìm” thấy mình trong đó, khiến Giác có đủ phù phép để “áp đảo” đối tượng, đi vào gan ruột kẻ đối diện khiến y không phản ứng kịp thời, nghiã là y không kịp giấu những gì y muốn giấu trước đôi mắt của Giác.
Cái tên cũng tiền định: Đã mộng còn giác. Giác có lẽ là tình cờ, cha mẹ đặt cho con, bởi lúc lọt lòng đã biết mắt nó thế nào. Mà đặt tên con bao giờ cũng là một ước nguyện. Mong con thông minh thì đặt tên minh, tên mẫn. Mong con trong trắng, thì đặt tên trinh, tên tuyết.
Có những trường hợp nguyện ước bị dội lại, như người tên Lành mà ác.
Có những trường hợp nguyện ước được thực hiện, trong đó có Giác. Cả mộng cũng vậy.
Bởi nếu không biết mộng thì làm sao có thể trở thành nhà văn? Cho nên cái tên tiền định do cha mẹ đặt đã báo trước phận số phận một nhà văn: một người biết mộng từ lúc sinh ra sẽ trở thành nhà văn Mộng Giác.
Con mắt là yếu tố quan trọng nhất trong sáng tác, khiến những người hoàn toàn khác nhau như Cao Bá Quát, Apollinaire, Merleau-Ponty, Bích Khê… đều đặt trọng tâm trên con mắt. Không biết mắt Cao Bá Quát như thế nào, nhưng ta biết mắt Bích Khê. Dù chỉ còn lại một tấm hình duy nhất của Bích Khê, tấm hình chỗ nào cũng in, rõ nhất là hai con mắt, như thủy tinh thể xuất ra từ cuộc đời ngắn ngủi của Khê, gọi ta về với vô cùng. Mắt Nguyễn Mộng Giác không “ăn ảnh” như mắt Bích Khê, có nghĩa là vào ảnh, nó bị sai đi, nó dị đi, nó bị đôi kính cận che đi một nửa, không được như bên ngoài. Chỉ khi sắp ra đi, anh không còn đeo kính, anh đem theo cả đôi mắt mun pha lê. Nhưng sản phẩm của đôi mắt để lại, là sự nghiệp văn chương anh, sẽ mãi mãi còn. Giác đi mà rất ở.
Một sự nghiệp dựng trên truyện ngắn và 2 bộ trường thiên: Sông Côn mùa lũ và Mùa biển động. Anh rất tâm đắc với bộ Sông Côn mùa lũ, mà anh thầm cho là bộ sách của đời anh. Có lần tôi nói với anh: Mùa biển động mới là tác phẩm của đời anh, Sông Côn mùa lũ, cũng hay, nhưng chưa phải. Anh có ý giận. Từ đó chúng tôi không bao giờ trở lại đề tài này nữa.
Hôm nay anh đi rồi, nói lại chuyện cũ, không phải vì anh đã mất, không thể trả lời được nữa, tôi lợi dụng nói bừa.
Câu chuyện văn học này, tôi không nói với anh, vì anh nghĩ thế nào về tác phẩm của anh là quyền của anh, đại để như cụ Nguyễn Du có cho Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là tác phẩm chính, hay hơn Kiều, thì chúng tôi cũng mặc kệ cụ. Bởi cụ chẳng có quyền gì trên tác phẩm của mình, điều cụ nghĩ về tác phẩm của mình chỉ đúng với cụ mà thôi, Paul Valéry đã có lần nhận ra như vậy.
Tại sao thế? Jean Paul Sartre giải thích rõ hơn: Bởi vì nhà văn không thể đọc được tác phẩm của mình như một độc giả. Lý do: hắn đã biết rõ từng câu từng chữ của hắn trước khi viết, nên khi đọc lại, hắn mất hẳn tính khách quan, là yếu tố hàng đầu, cần thiết cho một độc giả đích thực. Sở dĩ những người sống trong chế độ toàn trị, không thể “đọc” được sách theo nghiã thông thường, vì họ bị bủa vây bởi những thành kiến do tuyên truyền nhồi sọ, áp đảo lên họ từ gia đình đến học đường. Tóm lại, muốn “đọc”, cũng phải có tự do. Sartre đặt tự do của người viết và người đọc lên cùng một cán cân.
Tác giả, ở một xã hội tự do, có thể viết được, nhưng hắn vẫn không “đọc” được tác phẩm của hắn, vì những gì hắn viết, hắn đã biết trước rồi, cái “gu” của hắn, đã định rồi, tương tự như người sống trong chế độ toàn trị bị nhồi sọ. Vì vậy, biết bao nhiêu người cứ tưởng mình là nhà thơ nhà văn, nhưng sự thực, họ chẳng là nhà gì cả, mà có ai dám nói với họ sự thực đâu.
Cái thành kiến của nhà văn đối với tác phẩm của mình, giống như lời một nhân vật trong Đôi bạn của Nhất Linh: “Vì tôi đã quyết định thế rồi“.
Bộ Sông Côn mùa lũ, viết dưới chế độ cộng sản, với chủ đích dùng thời Tây Sơn để nói chuyện ngày nay, theo lời Nguyễn Mộng Giác kể lại với Phạm Phú Minh[9].
Bộ sách này, đối với người đọc không chuyên, là một bộ sách hay.
Nhưng về mặt nghệ thuật tiểu thuyết, nó phạm một số quy luật:
Nói chuyện với anh Minh, anh cho biết, khi dự định viết Sông Côn mùa lũ, anh chưa biết dùng ngôn ngữ thời nào, và khi thấy Nguyễn Du viết Kiều bằng ngôn ngữ “thời nay”, anh bèn viết theo Nguyễn Du[10].
Thực ra thì Nguyễn Du (1766-1820) không thể dùng ngôn ngữ “thời nay” hiểu theo nghĩa thời của chúng ta, việc ấy đã đành. Nguyễn Du “dịch” (tức là theo sát) tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, mà Thanh Tâm Tài Nhân là người sống gất gần triều đại Minh Thế Tông (hiệu Gia Tĩnh) (1507-1567), thời truyện Kiều xẩy ra.
Đọc Kiều, chúng ta thấy ngôn ngữ Nguyễn Du, nhưng đồng thời chúng ta thấy cả một thời đại xưa. Vì tất cả những câu thơ như: “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi“, “Hài văn lần bước dặm xanh”. “Vẫn nghe thơm nức hương lân“. “Sinh rằng: giải cấu là duyên“. “Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về“… tự chúng đã tạo cái không khí “thời trước”, nhưng ta chưa biết chắc là thời nào, nhờ có Thanh Tâm Tài Nhân, ta biết rằng, đó là thời không xa với Minh Gia Tĩnh.
Nhưng thỉnh thoảng lại có vài câu rất “hiện đại” như “Vân rằng: Chị cũng nực cười, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa“. Chắc Nguyễn Mộng Giác dựa vào lối xưng hô này mà anh đoán là Nguyễn Du dùng ngôn ngữ “thời nay” chăng? Không phải.
Vẫn trong hướng theo sát tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, mà tiếng Tầu chỉ có “ngộ, nị” (tôi, cô), nên Nguyễn Du “dịch” là “chị, em” trong tiếng Việt.
Điều đó chứng tỏ: Ở thời Nguyễn Du, anh chị em trong nhà xưng hô với nhau là chị, em.
Nhưng ta lại còn biết Nguyễn Du là người cực kỳ thận trọng, khi dùng những tiếng chị, em trong Kiều, ông không thể lấy cách xưng hô của thời ông, để chỉ một thời cách ông hai trăm năm. Vậy chắc chắn là Nguyễn Du đã tham khảo và biết rằng ở thế kỷ XVI, tại nước ta, anh em ruột trong nhà đã xưng hô với nhau là chị, em rồi!
Về ngôn ngữ thời đại Tây Sơn, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Thì Chí, phản ảnh rất rõ. Về phong tục, y phục, lối sống, văn hoá, của dân tộc ta trong suốt thời đại nhà Lê, trải mấy trăm năm, Phan Huy Chú ghi rất rõ trong Lịch Triều Hiến Chương. Vậy mà khi làm phim về Quang Trung, một đạo diễn bảo không biết thời ấy họ ăn mặc thế nào!
Những vấn đề để xây dựng một không khí cổ, ngoài y phục, cử chỉ, lời nói (trong chỗ thân tình, người xưa có thể nói giống chúng ta) nhưng ngôn ngữ xã hội luôn luôn được trang phục bằng những lớp lang khác của đạo đức, của tôn giáo, của thói quen, của những công thức, chỉ xuất hiện trong thời kỳ lịch sử ấy…
Mở rộng hơn nữa, chúng ta đi tới phần kiến trúc tiểu thuyết. Cái gì xác định một tác phẩm là tiểu thuyết?
Kiến trúc không gian và thời gian là điều quan trọng nhất trong tiểu thuyết. Bahktine gọi đó là Thời-không-gian (Chronotope): Nhà văn phải cấu tạo được Thời gian và Không gian trong tiểu thuyết của mình.
Sông Côn mùa lũ chưa tạo được thời không gian cuối thế kỷ XVIII, ở Việt Nam, dưới thời Tây Sơn. Vì các nhân vật trong truyện sinh hoạt nói cười, cử chỉ, bông đùa, tâm sự, hệt như trong xã hội ngày nay. Nguyễn Huệ nói chuyện với An không khác Ngữ nói chuyện với Diễm trong Mùa Biển Động. Do đó tác dụng xã hội học trong Sông Côn mùa lũ, gần như không có. Mà xã hội là nền tảng đầu tiên và cuối cùng của tiểu thuyết.
Vậy, rút cục tiểu thuyết là gì? Một trong những định nghiã sâu xa và bao trùm nhất, đến từ Bakhtine:
“Tiểu thuyết là sự đa dạng xã hội của ngôn ngữ, đôi khi của những thứ tiếng và những giọng cá nhân. Sự đa dạng này được thực hiện một cách văn chương. Những định đề thiết yếu của tiểu thuyết đòi hỏi ngôn ngữ dân tộc (langue nationale) phải được kết tầng thành những thổ ngữ (dialecte) xã hội khác nhau, thành những kiểu nói riêng của một nhóm người, thành những tiếng lóng, tiếng nhà nghề (jargon), thành ngôn ngữ của những kiểu cách, những lối nói, ngôn ngữ của một thế hệ, của một lớp tuổi tác, của các trường phái, của những kẻ cầm quyền, của những câu lạc bộ hay những mốt thời thượng, thành ngôn ngữ xã hội của “ngày này” (thậm chí của “giờ này”), thành ngôn ngữ của chính trị (mỗi ngày chính trị có một định thức riêng để chỉ định một vấn đề chính xác bằng từ vựng và bằng cách nhấn mạnh)11; mỗi loại ngôn ngữ trên đây phải được kết tầng bên trong tiểu thuyết, bất cứ lúc nào, khi câu truyện hiện hữu.“[12]
Đoạn viết trên đây của Bakhtine, có thể coi là một trong những định nghiã đầy đủ nhất về tiểu thuyết. Nó giải thích một số hiện tượng: có những tác giả, dù tài ba đến đâu, cũng không thể viết tiểu thuyết mà chỉ viết được truyện ngắn. Bởi vì họ không có cái nhìn quán xuyến toàn thể xã hội, họ không đi vào được nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ không tìm được các mối liên lạc giữa các nhóm xã hội khác nhau, như trường hợp Nguyễn Tuân hay Nguyễn Huy Thiệp.
Trở về trường hợp Nguyễn Mộng Giác, trong Mùa Biển Động, ông đã nhìn rõ lớp người trung lưu, có học, trong xã hội miền Nam mà người ta thường gọi là “tiểu tư sản thành thị“, đặc biệt ở Huế. Nhưng ông hoàn toàn xa lạ với lớp người Bình Định, quê hương ông, nhất là người dân quê. Trong khi Võ Phiến sở hữu từ thể xác đến linh hồn người dân quê Bình Định. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Võ Phiến nằm trong thời không gian Bình Định của những người dân quê, thô mạc. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Mộng Giác, nằm trong thời không gian Huế và Sài Gòn, thập niên 60-75.
Tập Sông Côn mùa lũ, đối với những độc giả không sành, vẫn là một cuốn tiểu thuyết hay, lôi cuốn, bởi Nguyễn Mộng Giác là một nhà tâm lý tiểu thuyết, ông đã dựng nên những thăng trầm của hai gia đình: giáo Hiến và họ Nguyễn với ba người con tên Nhạc, Lữ và Huệ.
Nhưng ông chưa dựng được xã hội Việt Nam dưới thời Tây Sơn, chưa dựng được chân dung lịch sử của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, trong xã hội Việt Nam thời Tây Sơn, với những con người thời ấy, với những cử chỉ, hành động, ngôn từ, của những lớp người xã hội thời ấy… Vì vậy khó có thể nói đến một thời không gian trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ.
Về Mùa biển động, tôi đã viết khá kỹ, ở đây chỉ xin thêm đôi dòng.
Với đôi mắt tinh tường, cái nhìn thàng hậu (nhân bản) Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng lại cuộc đời của nhiều gia đình, nhiều nhân vật trong thế hệ những người đã sống hoặc lớn lên ở trong Nam, thời kỳ chia đôi đất nước. Ông là một tiểu thuyết gia truyền thống, không đi tìm cái mới lạ, ông thể hiện tiểu thuyết như những người đi trước đã làm, như thời Hồ Biểu Chánh, như thời Tự Lực văn đoàn, bằng ngôn ngữ của thời ông… Là nhân chứng có con mắt bao quát và sâu xa, ông nhìn và viết lại xã hội miền Nam trước 1975, thuật lại biến cố Phật Giáo những năm 60, biến cố Mậu Thân thập niên 70, biến cố 30 tháng tư 1975, thuật lại cuộc di tản, thuật lại cuộc đời tha hương trên đất Mỹ… Chúng tôi đọc ông và thấy thấm thía, đau xót, đôi khi thấy những mảng đời mình. Ông đã thành công. Một thành công lớn, không phải tiểu thuyết gia nào cũng đạt được.
Viết những dòng này, không để tiễn Nguyễn Mộng Giác, bởi đối với nhà văn, ra đi là bước vào văn học sử, không có gì phải tiếc, không có gì phải tiễn. Ông đi, nhưng tác phẩm của ông ở lại. Khi nào chúng tôi còn đọc ông, khi nào đời sau còn đọc ông, ông còn hiện hữu.
Cũng không để “phê bình” ông, mà để chứng minh một điều: Nguyễn Mộng Giác là nhà văn của thực tại, của nhận xét tinh vi những gì xẩy ra trước mắt. Ông không phải là nhà văn của quá khứ, những gì trong quá khứ, qua tay ông, cũng trở thành thực tại. Ông là nhà tâm lý tiểu thuyết của hôm nay. Khi thực tại không còn gì thúc đẩy ông nữa, ông ngừng viết.
Thụy Khuê
Les Issambres ngày 12/7/2012
Chú thích:
1. Tuỳ bút 1, bản năm 1986, Văn Nghệ, trang 138, in là thàn hậu.
2 Sđd, trang 141.
3 Sđd, trang 142-143.
4 Trong bài Tựa này, ông viết là thàng hậu.
5 Tức Quách Tấn.
6 Văn số ra ngày 1/8/74, Sài Gòn (Chú thích của Võ Phiến).
7 Ngựa nản chân bon của Nguyễn Mộng Giác, Người Việt, Cali, tái bản, 1985, trang XIV.
8 Võ Phiến, bđd, trang XVI.
9 Phạm Phú Minh, Nói chuyện với Nguyễn Mộng Giác, Diendantheky.net
10 Phạm Phú Minh, Nói chuyện với Nguyễn Mộng Giác, Diendantheky.net
11 Ví dụ, ở Việt Nam có cụm từ “diễn biến hoà bình”, rất thời danh.
12 Mikhail Bakhtine, Esthétique et théorie du roman (Mỹ học và lý thuyết tiểu thuyết, bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Pháp của Daria Olivier, Tel Gallimard, 2003, trang 88-89).
Nguồn: http://www.diendantheky.net/2012/07/thuy-khue-nguyen-mong-giac-va-nguoi.html
Số lần đọc: 7062
RE: Nguyễn Mộng Giác và người Bình Định
“Anh rất tâm đắc với bộ Sông Côn mùa lũ, mà anh thầm cho là bộ sách của đời anh. Có lần tôi nói với anh: Mùa biển động mới là tác phẩm của đời anh, Sông Côn mùa lũ, cũng hay, nhưng chưa phải. Anh có ý giận. Từ đó chúng tôi không bao giờ trở lại đề tài này nữa.”
Không biết chuyện này xảy ra năm nào. Tuy nhiên lần ghé thăm Thầy tháng 9/2009, khi nói chuyện với Thầy tôi có cảm nghĩ là Thầy đặt Mùa Biển Động ở hàng đầu dù rằng Sông Côn Mùa Lũ có tiền bản quyền nhiều nhứt!
Lúc đó SCML đã lên mạng, còn sách in MBĐ thì gần tuyệt bản. Một trong những ưu tư lúc đó của Thầy là làm sao tái bản MBĐ để có nhiều người đọc hơn. Năm sau, Thầy “made the call”, và MBĐ lên mạng!
H.
Chuyện ai cũng biết
Điện thư ngày 28 tháng 11 năm 1998 của anh Giác gửi: “Trong những sách tôi viết, tôi bằng lòng nhất bộ truyện “Sông Côn Mùa Lũ”.
http://www.songthao.com/viet-cho-be-ban/viet-cho-nguyenmonggiac.htm