Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Trang NhàMùa Biển ĐộngTập 5 - Tha HươngMùa Biển Động - Chương 139

Mùa Biển Động – Chương 139

(Mùa Biển Động – Chương 139)

Mặt trận cách chỗ tàu vào rước Lữ đoàn Thủy quân lục chiến gần một cây số đường chim bay, bãi đáp lại nằm sau một khúc ngoặc của bờ biển nên tiếng súng giao tranh từ phía mặt trận tới đây nghe nhỏ và rời rạc, không làm cho ai lo lắng hoặc quan tâm.

Ngoài khơi, chiếc tàu nhỏ vẫn đậu yên kiên nhẫn chờ vớt được càng nhiều càng tốt. Số người như Trung úy Huy hay Lãng liệu sức bơi không tới nơi phải vào bờ quá nhiều. Số người chết đuối không biết bao nhiêu. Số người may mắn bơi được tới tàu cùng không phải ít. Trên tàu đã chật như nêm, mà đứng từ thành tàu nhìn vào bờ, cả một khúc biển đen đặc đầu người. Chung quanh tàu người ta hụp lặn, chới với bám lấy bất cứ thứ gì bám được của con tàu để nghỉ mệt trước khi lấy thêm sức leo lên. Nhiều người tuột tay rơi tõm xuống biển rồi không thấy trồi lên nữa. Nhiều người trồi lên được, may mắn chụp lấy một sơi dây hay bàn tay người trên tàu đưa xuống cứu, mệt quá chỉ còn đủ sức nắm chặt lấy cái đầu mối dây sinh tử để cho người ta kéo lên tàu. Chiếc bửmg tàu hạ xuống nằm cách mặt nước hơn một sải tay, lúc sóng to mép bửng đập xuống mặt nước, vô số người bị cái bửng thép đập vỡ đầu. Lúc bửng bị sóng đưa lên cao, vài người nhanh tay bấu được vào mép bửng như những con đỉa, nhiều người khác bám được tới nửa chừng lại rơi xuống biển.

Rồi cùng phải tới lúc con tàu phải ngưng vớt để chở người ra tàu lớn. Một luồng khói đen đột ngột phun lên từ cái ống khói khổng lồ, cái bửng từ từ khép lại. Năm sáu người đang bấu vào mép bửng và đã trườn lên tì cả phần thân trên vào miếng vỉ thép nên khi bửng khép, họ được lọt thỏm vào lòng tàu. Mười mấy người rơi xuống nước, lóp ngóp vô vọng bơi đi tìm một chỗ bám khác.

Cái bửng đã khép, nhưng không thể khép sát vào thành tàu được vì một người đến phút chót may mắn bám được mép bửng đang khép, nhưng lại rủi ro rơi đúng vào góc kẹt, chưa lăn người thoát nạn đã bị kẹp vào hai mép thép vô tình.

Những người đứng trên thành tàu nhìn xuống thấy hai chân của người đó đạp mạnh lung tung vào không khi một lúc, cố vùng vẫy thoát kẹt, nhưng cánh bửng vẫn không mở ra. Hai ống quần nhà binh ướt nước chỉ còn ngo ngoe, cuối cùng rũ xuống, hai bàn chân tái xanh gần chấm mặt nước biển.

Không còn chỗ bám nào lý tưởng hơn để leo lên tàu đối với những kẻ ra chậm, cho bằng đôi chân kẻ xấu số ấy. Quanh tàu, vẫn lố nhố chìm nổi vô số đầu tóc đen. Đôi chân người chết nhịp nhịp lên xuống theo từng cơn sóng giống như một lưỡi câu móc mồi ngon cho đàn cá đói. Một người túm được ống quần người xấu số. Rồi hai, ba người. Đôi chân người chết trở thành cái thang dây cứu được bốn người. Rồi sáu người. Hai ống quần ướt đã bị rách hết, vải quần không biết đã lọt vào bàn tay ai, “thang dây” chỉ còn là hai ống chân xanh tái đã gãy.

Đột nhiên, con tàu phun khói mù mịt một lần nữa, rồi rùng mình xoay mũi ra khơi. Chân vịt xoay tít chém đứt không biết bao nhiêu thân thể con người. Thân tàu xoay ngang, táng vào đầu không biết bao nhiêu người khác. Máu loang đỏ cả một vùng biển. Những cái đầu đen lô nhô quanh tàu như một đàn thiêu thân mỏi cánh nằm chịu chết trên mặt dĩa dầu đỏ ối.

Chiếc tàu đã xoay mũi ra khơi, nằm im một chút, nhưng thay vì chạy thẳng một đường ra hướng đông, chiếc tàu lại tiếp tục xoay tròn về hướng cũ. Nó xoay tròn quanh trục như thế hai vòng, chém đứt táng bể đầu không biết bao nhiêu người nữa, rồi nằm yên một chỗ. Mũi tàu hướng về phía bờ, mép bửng vẫn không khép chặt được vào thân tàu. Chỉ khác một điều là đôi chân người bị kẹt bị sức kéo quá nhiều người nên đã gãy lìa khỏi phần thân trên mắc kẹt bên trong.

***

Từ trên bờ, khi thấy chiếc tàu phun khói và quay mũi ra khơi, Trung úy Huy thở ra nhẹ nhõm, nói với Thiếu úy Sỹ:

– Thôi, nó đi rồi, tốt. Cho tụi mình yên tâm ở lại chịu đựng hết mọi sự, khỏi nhí nha nhí nhổm nữa!

Thiếu úy Sỹ đưa tay hất mái tóc mềm mượt như tóc con gái lên trán, lấy ngón trỏ quệt chùi bọt rượu trên môi, cười nhếch:

– Tao tưởng mày chì. Hóa ra cũng chỉ là thằng chết nhát.

Thiếu úy Địa phương quân Lộc nói:

– Chết có đáng mới nên chết. Bây giờ mà chết thì lãng xẹt. Nhưng được chết trên khô vẫn ấm thân hơn chết đuối như bọn kia.

Viên thiếu úy quay mặt trở về phía biển. Những người suýt chết đuối thất thểu chậm rãi lội lên bờ ngày càng đông, nhưng ngoài xa vẫn lô nhô một dải đen đặc đầu người, quanh con tàu và từ con tàu vào bờ. Bỗng Trung úy Huy kêu lên:

– Ơ kìa, sao nó xoay vòng như con vụ rồi nằm im thế kia?

Thiếu úy Sỹ cũng kinh ngạc kêu to:

– Tụi mày nhìn kia! Sao tụi nó nhảy khỏi tàu?

Đúng như viên thiếu úy pháo binh nói, từ lan can chiếc tàu, càng lúc càng có nhiều người nhảy xuống biển.

Trung úy Huy cau mày than:

– Tao đéo còn hiểu nổi nữa. Cả cuộc đời này điên hết rồi!

Lãng nãy giờ ngồi im không dám góp chuyện, bây giờ mới nói:

– Trung úy, ai như Thiếu úy Thành! Ở chỗ kia kìa. Phải rồi. Thiếu úy Thành.

Trung đội trưởng Trung đội 2, người cùng tên với ông Tiểu đoàn trưởng, lúc đó đang lóp ngóp bò từ dưới nước lên bờ, mệt quá nằm vật xuống cát, nửa thân dưới để mặc cho sóng xô ập lên.

Trung úy Huy nói:

– Chắc tàu bị hư rồi. Tao với mày tới vực thằng Thành lên đây cho nó nhậu lấy ấm.

Hai thầy trò đứng dậy, cát bám vào đáy quần áo ướt rơi rào rào, bay cả vào mặt hai thiếu úy Sỹ và Lộc. Cả một bãi cát dài vẫn còn dày những người không bơi nổi nên đành dừng lại trong bờ, hoặc vừa thoát chết đuối nằm sóng soài trên cát ẩm lấy lại sức.

Đúng lúc đó, hai chiếc xe tăng M-113 chở đầy người từ phía mặt trận gầm rú hùng hổ phóng tới. Xích xe tăng thản nhiên cán nhầu lên những người đang nằm ngồi trên bãi cát, tiếng la hét hoảng sợ của những nạn nhân chen lẫn với tiếng la hét của những người đứng trên M-113. Hai chiếc xe tăng dừng lại ở cách chỗ Trung úy Huy khoảng một thước, xích sắt xoay tròn tung cát bay mù mịt, rồi quay mũi ra khơi phóng xuống nước. Một chiếc đâm sầm tới chỗ Thiếu úy Thành đang nằm.

Lãng vừa giận vừa sợ, không còn suy nghĩ gì nữa nhào tới đẩy mạnh Thiếu úy Thành ra một bên. Xích chiếc M-1 13 in một dấu sâu xuống cát lún, chỉ cách họ không quá nửa thước. Hoàn hồn vì vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, cả Lãng lẫn Thiếu úy Thành ngồi dậy, giơ nắm tay lên chửi thề:

– Đù mẹ bọn khốn kiếp.

Hai chiếc chiến xa lội nước hùng hục bơi nhanh ra tàu như hai con rái cá sung sức, mặc kệ không thèm biết phía trước chiến xa đầu người lô nhô đen đặc cả mặt biển, và phía sau chiến xa bọt nước biển trắng cuồn cuộn thành luồng có trộn lẫn máu, quần áo, thịt của các nạn nhân. Hai chiếc M- 113 chạy băng băng ra tới tàu, đưa hết người lên, rồi lại trườn lên đám đầu người để trở vào bờ.

Trung úy Huy vực Thiếu úy Thành đứng dậy, đưa bạn tới gần “bàn nhậu”, rót cho Thành nắp rượu, rồi nói:

– Mày ngồi đây. Tao phải trị tụi chó chết này mới được. Tụi nó coi mạng sống con người như rác.

Thiếu uý Sỹ nói:

– Vô ích! Mày có làm cái gì cũng vô ích thôi. Làm cái gì cũng không có chút lý nào hết. Như người sa lầy, mày càng động càng mau lún.

Trung úy Huy giận dữ nói to:

– Mày lý luận theo kiểu thằng hèn.

Thiếu uý Sỹ hất mặt về phía hai chiếc M-113 vừa vào bờ:

– Khẩu đại liên trên pháo tháp tụi nó còn nguyên dây đạn, mày thấy không? Muốn tự tử thì lại gây sự với tụi nó đi.

Trung úy Huy ngồi im, mặt hầm hầm, nhìn về phía hai chiếc M-113 đậu như muốn ăn tươi nuốt sống hai con quái vật. Một chiếc đậu cách chỗ họ ngồi hơn trăm thước, gần bên một khóm dương liễu trụi lá cao không quá đầu người. Một chiếc đậu ngay bên mép nước, cách “bàn nhậu” vài chục thước.

Chiếc M-113 đậu gần không tắt máy nhưng nắp pháo tháp vẫn kín, nằm ù lì mặc cho sóng đập từng đợt tung tóe vào thân thật lâu, cuối cùng một bóng người nhô lên từ pháo tháp. Một người lính thiết giáp. Anh ta đứng hẳn lên nắp chiếc M-113 nhìn quanh như người lạc đường định phương hướng, rồi la lớn:

– Chuyến này là chuyến chót. Có ai muốn ra tàu không?

Những người đang nằm ngồi quanh đó hoặc vừa thoát chết hụt dưới bộ xích sắt của hai chiếc M-113, hoặc tận mắt chứng kiến cảnh chết chóc đằng sau hai chiếc chiến xa lội nước, nên đều hoang mang ngần ngừ không dám tin lời người lính thiết giáp. Không ai trả lời. Người lính hét lớn hơn:

– Còn ai muốn ra tàu không? Lần này không trở vô nữa đâu. Chuyến chót.

Những người ở gần đã lục tục kẻ trước người sau nhổm dậy, và dè dặt chậm rãi tiến tới gần chiếc M-113. Một người đàn ông dẫn theo đứa con trai tới sát bên chiếc xe, ngửng mặt nói gì đó với người tài xế, rồi người tài xế cúi xuống đưa tay kéo thằng bé lên trước, sau đó tới phiên người lớn tuổi.Thế là những người do dự hết còn do dự. Người lính thiết giáp không cần giúp đỡ ai nữa, anh ta đứng chống nạnh nhìn người này đỡ người kia leo lên, rồi tới phiên người tới sau đỡ những người tới trước.

Trung úy Huy hỏi những người bạn đang uống rượu:

– Lên không tụi bây?

Thiếu úy Sỹ lắc đầu, giọng triết lý:

– Từ bờ ra tàu còn đầy cả người. Tao không tìm đường sống trên xác chết của người khác.

Trung úy Huy chửi thề:

– Đù mẹ thằng này triết lý lẩm cẩm hoài, khó chịu thấy mẹ. Mày không ngồi trên chiếc M-1 13 thì nó vẫn cứ dẫm lên xác nhiều người để ra tàu.

Thiếu úy Sỹ buồn rầu đáp:

– Tao biết. Nhưng tao từ chối tham dự vào cái trò phi lý này. Tụi mày cứ đi đi. Tao ở lại.

Trừ thiếu úy Sỹ, bốn người kia, cùng với Thiếu úy Thành cùng đứng dậy. Thiếu úy Sỹ cũng phủi cát trên đũng quần đứng dậy theo. Thiếu úy Lộc vui mừng hỏi:

– Mày đổi ý rồi hả?

– Không. Tao phụ đưa thằng này lên.

Thiếu úy Sỹ trỏ Thiếu úy Thành, lúc ấy người lả đi như một cái xác chết. Thiếu úy Sỹ phụ với Lãng đưa Thiếu úy Thành tới chỗ chiếc M-113. Trên xe đã gần chật. Lúc đã lên xe xong, Trung úy Huy quay xuống nói với Thiếu úy Sỹ:

– Thôi chào mày, thằng gàn dở. Thế nào cũng gặp lại mày ở Đà nẵng. Trời không phụ mày đâu.

Thiếu úy Sỹ cười khẩy, vẹt mớ tóc bị gió phủ lên trán qua một bên, ngước lên nói:

– Lại còn Trời nữa! Cút đi, thằng cải lương!

Chiếc M-113 chưa quá chật nhưng không còn ai muốn lên nữa. Số còn ở lại do dự không dứt khoát, vì họ thấy ngoài xa, nhiều người tiếp tục nhảy xuống biển dù đã ở trên tàu.

Chiếc M-113 đậu chỗ bụi dương chạy trước. Chiếc còn lại rồ máy, xoay đầu rồi cùng phóng xuống biển. Đến lúc đó, trung úy Huy mới tận mắt chứng kiến cảnh chiếc chiến xa lội nước phóng càng lên những dề đầu người nổi bập bềnh trên mặt biển, và phía sau là luồng bọt biển trắng trộn lẫn máu, dẻ quần áo rách và thân xác người. Sóng biển đập mạnh vào mũi chiến xa cùng với tiếng máy nổ trấn át những lời kêu cứu kinh hoàng ở giờ phút cuối, nhưng bên tai Trung úy Huy, dường như ông nghe rõ cả những âm thanh ngắn và nhỏ nhất: tiếng bụp của một cái đầu bị vỡ, tiếng ho nghẹn của người sắp chết chìm, tiếng xương gãy rào rạo, tiếng vải quần áo bị xé. Có điều ông lấy làm lạ là lòng ông không chấn động dữ dội như ông đã tưởng. Trung úy chỉ thấy một cảm giác tê dại lan khắp thân thể, và đầu óc ông ngây ngây như vừa uống một chai bia. Ông không hiểu những người đang chen chúc trong chiếc 113 có như ông không. Ông quay quanh quan sát nét mặt mọi người. Không ai nói gì. Phần lớn mọi người đều nhìn thẳng tới trước như những pho tượng. Chỉ có người đàn ông mặc đồ dân sự dẫn theo đứa con trai một tay vuốt tóc thằng nhỏ, một tay lần chuỗi mân côi.

***

Chiếc chiến xa lội nước đã áp sát vào mạn con tàu. Sóng đập vào thân chiếc M-113, hai vách thép cọ sát vào nhau tạo thành những tiếng rít ngắn nhưng cũng đủ làm ghê gai người nghe. Từ nắp chiếc M-113 lên tàu khoảng cách khá xa, cả con tàu lẫn chiếc xe lội nước đều nhấp nhô theo sóng, nhưng nhờ người trên tàu dùng dây kéo, cuối cùng mọi người trên chiếc M-113 đã lên được tàu. Kể cả anh lính tài xế thiết giáp lên sau cùng với Lãng. Hai người nắm lấy một đầu dây chão leo lên tàu sắt, và khi đã ngã lọt vào lòng tàu, cả hai nằm thở một lát cho đỡ mệt rồi mới lồm cồm ngồi dậy.

Cảnh trên tàu ồn ào huyên náo, nhiều tiếng la hét chen lẫn với tiếng súng. Tàu chật như nêm, Lãng thấy quanh mình toàn chân người và lưng, lại ngộp thở vì mùi mồ hôi và nước tiểu nồng nặc, nên đầu óc quay cuồng điên đảo, chẳng thể nào đoán được điều gì đang xảy ra chung quanh. Lãng rán chống hai tay lên đầu gối đứng dậy. Mùi mồ hôi và nước tiểu loãng bớt, Lãng cảm thấy dễ chịu hơn vì thở được hơi mát của gió biển. Mắt Lãng trông rõ hơn. Quanh Lãng, nhiều Thủy quân lục chiến đã lên tàu trước, người nào cũng lăm lăm một khẩu súng trên tay. Lãng thấy Trung úy Huy đang đứng cách mình độ năm bước, lưng dựa vào thành tàu, tóc ướt và rối dán lên đầu, hàm râu quai nón không cạo lâu ngày cũng ướt và rối. Mắt ông đỏ ngầu và lạc thần.

Lãng lách người và chen tới chỗ viên trung úy đang đứng. Người lính tài xế M-113 cùng đi theo Lãng để tìm chỗ thở. Bị chen lấn, vài người lính Thủy quân lục chiến định sừng sộ với Lãng, nhưng khi thấy Lãng mặc đồ rằn ri của lính mũ xanh, họ đổi nét mặt, nhường chỗ cho Lãng đi tới. Nhiều loạt súng nổ thật gần. Lãng đã tới sát viên trung úy. Lãng hỏi:

– Cái gì mà lộn xộn vậy, ông thầy?

Trung úy Huy đáp, giọng chán nản:

– Tàu chở nặng quá bị mắc cạn không đi được. Họ đuổi bớt xuống.

Có giọng nhiều người hét to:

– Ê, thằng kia không phải lính mũ xanh. Vô bờ đi!

Một đám bốn năm người lính Thủy quân lục chiến đang xúm quanh anh tài xế chiếc M-113 đi sau Lãng. Một lính mũ xanh túm cổ áo người lính Thiết giáp, quát to:

– Nhảy xuống biển nhanh lên, không tao bắn nát óc.

Một người khác nói:

– Tàu này vào rước tụi tao, không phải tụi mày. Nhảy xuống đi.

Trung úy Huy vội can thiệp:

– Anh này vừa đưa chúng tôi ra tàu. Cho anh ta ở lại đi!

Đám lính mũ xanh nhìn đăm đăm Trung úy Huy. Họ nhận ra viên đại đội trưởng. Người lính Thiết giáp thấy thoát nguy, đưa mắt tìm chỗ an toàn, nhưng rồi cuối cùng anh ta đứng trần tại chỗ không nhúc nhích. Có lẽ anh ta không thấy chỗ nào an toàn hơn chỗ vừa thoát hiểm.

Lãng lần túi áo trận rút khẩu súng lục đưa cho Trung úy Huy, nói nhỏ:

– Ông thầy cầm lấy cái này. Em còn khẩu nữa.

Viên trung úy cau mày nói:

– Tao đâu có cần!

Lãng nói:

– Họ đang đuổi những người không phải lính mũ xanh xuống tàu.

– Mình lính mũ xanh thứ thiệt, sợ gì!

– Không phải ở đây ai mặc đồ rằn ri cũng đều là lính mũ xanh. Không phải người lính Thủy quân lục chiến nào cũng biết Trung úy. Có súng trong tay chắc ăn hơn.

Trung úy Huy nhận thấy thằng em út thân tín của mình có lý. Ông nhận khẩu súng, cho vào túi áo trận.

***

Chỗ hai thầy trò đang đứng nhằm vào một góc chẹt, trên đầu trần tàu thấp, lối đi hẹp, không khí bên ngoài lại không lọt vào được, vì đám người chen chúc nhau ở đầu hành lang. Trung úy Huy bảo Lãng:

– Ra ngoài tìm thằng nào còn nước, xin uống. Khát quá.

Không đợi ý kiến Lãng, viên trung úy lách người chen ra trước. Lãng theo sau. Người lính Thiết giáp lo sợ nắm lấy lưng áo Lãng đi theo. Lãng giận dữ quay lại lườm người bạn chiến hữu khác binh chủng, trí chưa quên được cảnh chiếc M-113 xông bừa lên bao nhiêu người trên bãi biển và mặt nước để tìm lấy đường thoát. Nét mặt anh lính Thiết giáp trông hốt hoảng chới với đến tội nghiệp. Lãng để mặc cho anh ta bấu lấy áo mình, cố len lách theo cho kịp Trung úy Huy.

Ra khỏi lối hẹp nồng nặc mồ hôi và mùi xăng nhớt, họ đến được một khoảng trống thoáng khí hơn, ở trên boong. Và họ cùng hiểu rõ hơn vì sao có những tiếng súng nổ lẻ tẻ ngay trên con tàu, mặc dù tàu đậu ở ngoài tầm đạn súng nhỏ của địch quân.

Trước mắt họ, hai người lính Thủy quân lục chiến đang túm lấy xác một lính bộ binh quăng xuống biển, trước đôi mắt khiếp đảm của những người chung quanh. Người chết bị đạn ở đầu, mái tóc đen xơ xác bết thành từng mảng cứng vì còn ướt nước biển và máu. Một người lính mũ xanh túm lấy vai áo người chết. Người lính kia nắm lấy hai cổ chân. Họ thử lấy hết sức nâng bổng xác chết lên để vứt qua khỏi thành tàu nhưng không được. Cuối cùng, hai người lôi xác chết đến dựng sát thành tàu, rồi chia nhau mỗi người mỗi chân đẩy ngược xác chết lên cao, cao nữa, cho tới lúc nửa thân dưới nằm chênh vênh quá mép thành tàu họ mới đẩy mạnh xác chết ra ngoài.

Trong lúc đó, một lính Thủy quân lục chiến khác cầm khẩu M-16 tiến tới chỗ một trung úy Bộ binh, phù hiệu của Sư đoàn 1 mang trên cánh tay áo. Ông trung úy tuổi chưa đầy ba mươi, da nâu rắn chắt nhưng trước cái chết gần kề không thể giữ được bình tĩnh. Ông run rẩy trước họng súng, miệng lắp bắp:

– Tôi lạy anh, xin các anh cho tôi theo.

– Đù mẹ tại tụi bây bám theo như ruồi mà tàu mắc cạn. Có xuống không?

– Lạy anh mà! Xin anh thương tôi. Tôi…

– Đù mẹ tao đấm ba tiếng mà không chịu nhảy, chết như thằng kia rán chịu. Đù mẹ một.

– Tôi lạy anh mà. Anh bắt tôi lạy bao nhiêu lạy tôi cũng chịu hết. Gia đình tôi ở Sài gòn, xin anh thương cho.

– Đù mẹ hai.

– Khoan đã anh. Xin anh nghĩ lại. Tình đồng đội lúc hoạn nạn mới cần tới nhau…

– Đù mẹ ba.

Tiếp theo tiếng “ba”, súng nổ. Viên trung úy Bộ binh bật ngửa ra sàn tàu, đôi mắt ngỡ ngàng chưa hiểu cái gì đã xảy ra. Viên đạn M-16 ghim thẳng vào đỉnh đầu viên trung úy. Cái xác oằn cong lên, rồi quay nghiêng. Máu tuông ra xối xả nhưng không chảy thành dòng mà hòa nhập với lớp chất lỏng sênh sếch nhơm nhớp tanh tưởi gồm nước biển, nước tiểu, cát, cứt, rác trên sàn tàu, thêm độ tanh cho cái mùi sẵn có của nhân sinh. Xác trung úy Bộ binh bị vứt xuống biển xong thì người lính đao phủ thủ quay quanh tìm cái bia mới. Ông thiếu tá Bộ binh già đứng cạnh Trung úy Huy chưa bị gọi đã lập cập xưng:

– Anh tha cho em. Các anh tha cho em. Tuổi em già, bơi không nổi.

Người lính đang tiến về phía viên thiếu tá mặt non choẹt, chỉ đáng tuổi con của ông thiếu tá. Người lính không dài dòng, chi hô: “Một”.

Ông thiếu tá sợ quá, vội đưa cả hai tay ra trước che lấy mặt, miệng lắp bắp kêu:

– Thôi, thôi. Để em xuống.

Nói như vậy nhưng ông không đủ sức để bước về phía mép tàu. Chân ông bủn rủn vì sợ. Gần như ông lết về phía thành tàu chứ không đi được. Đến nơi, ông quay lại, năn nỉ:

– Các anh thương giùm em.

– Hai.

Viên thiếu tá bật khóc, rồi phóng xuống biển.

Trung úy Huy cảm thấy bất nhẫn, nhưng biết rõ là không thể làm gì được. Cũng may những người lính đó không thuộc đại đội của ông. Cũng không thuộc Tiểu đoàn 4. Nhưng dù họ là em út của ông, liệu ông làm được gì trong hoàn cảnh này. Ở những chỗ khác trên khắp tàu, vẫn đều đều có tiếng súng nổ, và nhiều xác chết bị quăng xuống biển, nhiều người lính Bộ binh bị bắt buộc phải nhảy khỏi tàu.

Trung úy Huy nói nhỏ với Lãng:

– Tìm cái xó kẹt nào mà ngồi đi.

Lãng gật đầu. Mới dợm bước, Lãng bị anh lính Thiết giáp níu áo giữ lại. Lãng không thèm quay lại, lấy cái mũ xanh đưa cho anh ta. Hai thầy trò chen được một đoạn thì thấy Thiếu úy Kiểu ngồi bó gối một mình ở cái góc chẹt ngay dưới cầu thang sắt lên boong. Trung úy Huy hỏi:

– Sao mày ngồi đây?

Ánh mắt Thiếu úy Kiểu hớt hải khi ông đáp:

– Tụi nó giết người dã man quá. Tôi trốn ở đây may ra khỏi thấy gì cả. Tự đánh lừa con mắt mình vậy thôi!

***

Số người bị giết không nhiều, nhưng cũng đủ để vô số lính Bộ binh Sư đoàn 1 và binh chủng khác với Thủy quân lục chiến phải sợ và nhảy xuống biển. Tàu nhẹ bớt, thuyền trưởng hy vọng có thể quay mũi ra khơi được. Khốn nổi nước thủy triều hạ xuống còn nhanh hơn mức giảm trọng tải của chiếc tàu nhỏ.

Súng cứ nổ, xác cứ đổ, người cứ nhảy xuống biển, mà tàu vẫn cứ mắc cạn.

Họa vô đơn chí, một máy tàu chẳng hiểu vì sao lại nhè lúc này mà hư. Thợ máy loay hoay mãi không sửa được. Thuyền trưởng là một ông chuẩn úy Hải quân già, cứ lúng ta lúng túng chạy đi chạy lại trong buồng máy, không biết phải làm gì. Có người đề nghị ông liên lạc xin tàu khác vào kéo. Ông vỗ trán mừng rỡ, tự trách tại sao một việc đơn giản như thế lại không lo làm từ trước, chỉ lo loay hoay sửa máy. Một chiếc tàu nhỏ từ ngoài khơi quay mũi vào bờ cứu bạn. Thấy cái gương trước mắt, chiếc tàu cấp cứu không dám vào gần, sợ lại mắc cạn không ra kịp với đà rút của thủy triều. Hai chiếc tàu đậu xa nhau quá, dây cáp không đủ để kéo nhau. Chưa biết tính sao, thì địch từ trong bờ pháo kích ra. Quả pháo rơi tõm vào lòng biển không gây thiệt hại gì. Nhưng đó là phát súng lệnh cho phép chiếc tàu kia chạy thẳng ra khơi, với một lương tâm bình an.

Quả pháo của Bắc quân nhắc mọi người trên tàu nhớ lại rằng số phận họ vẫn còn nằm trong tầm đạn địch. Thế là cả tàu lại nhốn nháo, hốt hoảng tranh nhau một chỗ núp an toàn. Một chỗ tránh đạn.

Boong tàu đỡ chật chội hơn, chỉ còn vương vãi quần áo giày dép trên một sàn tàu nhơm nhớp hôi hám. Xác một người lính Bộ binh còn nằm sát thành tàu, mặt quay vào bờ thép lạnh, đôi giày trận dơ dáy một bên buộc dây chặt, một bên không còn dây.

Giữa cảnh hoang tàn chỉ còn lại hai người tâm thần rối loạn nên hết còn biết sợ. Một người lính lạc mất vợ con chỉ mặc có cái quần treillis ướt đi chân không cứ thơ thẩn dạo quanh như cố tìm dấu vết vợ con trên những vệt máu tanh, những bãi cứt bị dẫm bẹp, những quần áo lót đen đúa bị vất lại đây đó.

Người không biết sợ kia là một cô gái trần truồng, chứng kiến những điều hãi hùng nhiều quá khiến cô ta không còn biết mình là ai và đang ở đâu. Tấm thân trắng xanh không còn dính một mảnh vải dù là đồ lót nhưng cô gái không chút ngượng nghịu, cứ đi đi lại lại thơ thẩn trên boong tàu, mắt thất thần, miệng lầm bầm nói những gì không ai nghe rõ.

Một anh lính trẻ mặt mày vừa bối rối vừa lém lỉnh mang tới cho cô gái điên cái áo. Cô gái không hiểu gì, người lính phải giúp cho cô ta mặc áo vào. Cái áo lính rộng che được đôi ngực nhỏ và phủ quá phần hạ bộ của cô gái. Anh lính đã bớt bối rối, cúi xuống cài nút áo giúp cô gái như một người anh săn sóc đứa em tàn tật. Một người lính khác đem cái quần lụa đen ra bảo cô mặc. Cô gái bắt đầu biết ngượng, một tay kéo cái áo lính phủ bớt cặp giò, một tay cầm cái quần lụa đi tìm chỗ kín đáo hơn để mặc vào.

Thiếu tá Thành đi qua chỗ Huy, Lãng và Kiểu ngồi, mừng rỡ cho ba thuộc hạ của ông còn sống cho tới lúc này, rồi bảo họ đi theo ông lên buồng lái thử xem có làm được gì không. Ông nói:

– Phải bảo ông thuyền trưởng liệu cách nào chứ. Chẳng lẽ nằm chịu trận ở đây chờ Việt cộng nó tới lùa vô bờ.

Trung úy Huy khâm phục đức tính bình tĩnh trong mọi tình huống của ông xếp trực tiếp. Ông chuẩn úy thuyền trưởng già đang vò đầu bức tóc vì không liên lạc được với các tàu bạn. Ông nói:

– Thật là lạ! Gọi đúng tần số đấy chứ. Nhưng không có ai trả lời cả.

Thiếu tá Thành nói:

– Hay họ sợ vào lãnh đạn như chiếc tàu vừa rồi. Nếu liên lạc được, chuẩn úy bảo họ cứ đậu xa, mình sẽ tìm cách nối dây cáp cho họ kéo.

– Hay ông thử liên lạc bên Lữ đoàn các ông xem sao.

Thiếu tá Thành thú thật:

– Lữ đoàn chúng tôi rã đám hết rồi. Còn mong gì nữa.

Trung úy Huy liếc mắt ra hiệu cho Lãng và Thiếu úy Kiểu ra khỏi buồng lái tàu. Không còn hy vọng gì nữa. May ra thì cứ nằm ì ở đây, chờ tới lúc thủy triều lên.

Cả ba lặng lẽ xuống cầu thang. Lãng nhanh tay mượn tạm của ông thuyền trưởng một hộp lương khô và thủ vào áo lúc chủ nhân còn bận bịu với cái máy truyền tin, bấy giờ mới nói nhỏ với hai ông xếp:

– Ông thầy với Thiếu úy thủ một ít lương khô. Đói quá. Ăn xong đi tìm nước.

Trung úy Huy cười, nhận cái bọc bánh khô bọc bằng giấy nhựa mầu rêu, xé vội ra, đưa cái bánh lên nhai nhồm nhoàm. Thiếu úy Kiểu thì hấp tấp xé bao tìm bao thuốc Camel năm điếu.

Họ đang ăn uống vụng trộm mà thích thú, thì một tiếng nổ long trời ở ngay cạnh họ. Sau đó liên tiếp nhiều tiếng nổ nữa làm rung chuyển sàn tàu họ đang ngồi. Mắt trung úy Huy hoa lên, tai ông ù đặc không nghe gì nữa, sức nổ ép không khí làm cho ông cảm thấy ngạt thở, cả viên trung úy lẫn hai đàn em phải hả miệng lớn ra hớp lấy không khí mới đỡ thấy ngạt.

Lúc hoàn hồn, họ mới biết Bắc quân đã pháo kích trúng đài chỉ huy. Họ vội chạy ngược lên buồng lái. Giữa cảnh hoang tàn, Thiếu tá Thành và Chuẩn úy thuyền trưởng may mắn thoát chết nhưng cả hai đều bị thương. Thiếu tá Thành bị thương ở cánh tay trái, còn Chuẩn úy thuyền trưởng thì bị một mảnh đạn pháo 57 ly vào đầu.

Thiếu tá Thành quen trận mạc nên ông biết vết thương của mình không nặng lắm. Thử cử động bàn tay trái, ông đoan quyết là xương chưa gãy. Nhưng Chuẩn úy Tấn thì kinh hãi không biết mình còn sống được bao lâu nữa. Ông không ngồi dậy được, cứ nằm nguyên chỗ bị sức nổ quật ngã lúc nãy. Trung úy Huy tới đỡ ông dậy, xem qua vết thương ở đầu mới biết là ông chỉ bị mất một mảng thịt và tóc gần bên mép tai phải, không hề hấn gì tới xương sọ. Họ chia nhau băng bó cho người bị thương, trước khi bỏ buồng lái đi xuống hầm.

***

Trên boong tàu, cảnh tượng còn hãi hùng hơn. Hai quả 57 ly rơi đúng vào chỗ người chạy loạn ngồi chen chúc nên thây người nằm la liệt đủ kiểu. Máu chảy lênh láng, quần áo rách, thịt xương bầy nhầy, những bộ phận thân thể bị sức nổ làm văng tung tóe, bám đầy lên mạn tàu.

Trung úy Huy không dám nhìn lâu cảnh tượng trước mắt. Từ sáng tới bây giờ ông đã chứng kiến không biết bao nhiêu cái chết. Nhưng cảnh thịt xương tung tóe, máu chảy lênh láng ngay trước mắt ông, cùng với một mùi tanh tưởi bốc lên và tiếng la hét kêu khóc, tất cả hợp lại thành một thứ áp lực quá sức chịu đựng của ông. Ông muốn nôn mửa, phải vịn tay vào một thanh sắt cầu thang mới đứng vững.

Bắc quân vẫn tiếp tục rót theo đường cầu vồng nhiều quả đạn 57 ly vào chỗ tàu đậu, không có quả nào trúng đích như loạt pháo kích đầu tiên. Những người sống sót hoàn hồn chạy đi tìm một chỗ núp, dày xéo lên nhau như những con thú cùng đường. Tiếng la khóc cùng cảnh hỗn loạn đánh thức Trung úy Huy dậy. Ông nghe được giọng Thiếu úy Kiểu:

– Tụi nó đặt súng ở cái miếu kia, Trung úy.

Và giọng Lãng:

– Tiếc quá, có súng bắn cho chết mẹ tụi nó đi.

Trung úy Huy chợt nhớ, vội hỏi:

– Trên tàu phải có đại liên. Mày chạy lên hỏi ông thuyền trưởng, nói ổng ra lệnh anh em Hải quân nã cho nát cái miếu đó. Chắc chắn tụi nó đặt súng ở đấy. Thấy không, có nhiều bóng người ở cái miếu đó.

Ba người cùng nhìn về phía địch đặt súng pháo kích. Và cả ba người đều giật mình kinh hãi, nhận ra một điều: nước thủy triều đã rút cạn, từ chỗ tàu đến cái miếu nguy hiểm tuy có xa, nhưng từ chỗ tàu vào bờ cát chỉ có khoảng cách không đầy mười thước. Sàn tàu nghiêng sang một bên không phải vì sức nổ mà vì một phần con tàu đã nằm ghếch lên cát.

Vừa lúc đó Thiếu tá Thành từ trên đài chỉ huy chạy xuống. Ông nói với hai sĩ quan dưới quyền:

– Hải quân họ sắp bắn vào cái miếu đó rồi. Tàu mắc cạn, phải bỏ tàu vào bờ liền. Ông Tấn sắp cho hạ bửng tàu xuống cho đồng bào chạy ra. Thế nào tụi nó cũng gờm sẵn súng để bắn bia. Các anh chạy đi gom anh em và súng ống lại, bắn bảo vệ cho đồng bào lên bờ.

Viên thiếu tá chạy ngược trở lên đài chỉ huy. Vài phút sau, giọng Thiếu tá Thành vang lên từ hệ thống truyền thanh của tàu:

– Tất cả mọi người phải rời tàu ngay lập tức. Bửng tàu sắp hạ xuống, tất cả mọi người phải lên bờ, anh em Thủy quân lục chiến lập phòng tuyến bảo vệ cho bà con. Tôi nhắc lại: không ai được ở lại trên tàu. Càng nấn ná trên tàu bao nhiêu càng dễ chết bấy nhiêu…

Ngay sau đó, súng trên tàu nổ dòn, tia đạn bay về phía cái miếu. Nhưng địch từ doi cát cao trên bờ và từ cái miếu nhỏ vẫn đều đặn bắn ra, cả súng nhỏ lẫn M-79. Một quả M-79 rơi đúng vào lòng tàu, nên khi cái bửng vừa hạ, nhiều người đã ùa nhau nhảy xuống bờ cát. Địch chờ sẵn từ lâu giờ phút đó, nhắm vào cái bửng đang hạ thấp để khai hỏa.

Nhiều người ngã chết ngay trên mặt bửng, nhiều người may mắn thoát nạn chạy núp sau những mô cát, nhiều người nữa chậm chân thấy cảnh chết chóc trước mặt run sợ co rúm nép vào thành tàu.

Thêm nhiều quả M-79 rơi trúng đích hơn, đạn rơi trên boong, rơi vào lòng tàu. Ở lại trên tàu còn nguy hiểm gấp bội liều lĩnh chạy qua cái bửng để nhảy xuống bãi cát.

Số người thoát nạn chạy vào được tới bờ ngày càng đông, tiếng súng thưa thớt dần. Trên tàu chỉ còn những người bị thương bị bỏ lại và những người chết. Những xác người bị đạn 57 ly làm tan nát một lần, sau đó bị hàng trăm đôi chân dẫm lên cuối cùng chỉ còn là một đống thịt bầy nhầy vương vãi khắp nơi. Những người chết vì ngạt thở khi chen lấn, may mắn hơn hình hài còn nguyên vẹn. Tiếng rên la yếu ớt tuyệt vọng của người bị thương còn sống nghe rõ mồn một, khi tiếng súng đã im, sóng đã kéo giạt ra xa phơi nguyên chiếc tàu lên bờ.

Nhưng những người sống sót còn đang lo tìm một chỗ núp an toàn, nên chưa có ai nghe lời cầu cứu.

Thiếu úy Kiểu, Trung úy Huy và Lãng là những người rời khỏi tàu sau cùng. Lãng nhận ra xác người tài xế Thiết giáp nằm ngay trên mặt bửng, nhờ cái mũ xanh Lãng cho anh ta mượn, vẫn còn chụp lên đầu xác chết. Trung úy Huy thì nhận diện được xác Thiếu úy Thành.

Họ vào bờ khi nắng còn chói chang. Quá lắm là ba bốn giờ chiều mà thôi.

Nguyễn Mộng Giác

   Số lần đọc: 140

Tác Phẩm

BÀI KỀ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây