Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Trang NhàMùa Biển ĐộngTập 5 - Tha HươngMùa Biển Động - Chương 138

Mùa Biển Động – Chương 138

(Mùa Biển Động – Chương 138)

Dĩ nhiên cả đêm không ai chợp mắt được. Quá khuya trời nổi gió lớn. Cát bay tứ tung, từ trên bờ giao thông hào rơi rào rào lên mũ sắt. May mà có mấy bao Ruby của Trung úy Huy phát, nên hơi thuốc lá giúp cho mọi người giữ được tỉnh táo, hờm sẵn súng đề phòng địch mở trận tấn công vào ban đêm.

Lãng nằm bên cạnh Thiếu úy Kiểu, “ông thầy” thì nằm cách chỗ Lãng độ mười thước. Cát mềm nên giao thông hào không đào sâu được, bờ lai lải nên mọi người phải nằm sát xuống mặt cát ướt mới an toàn, khi cần di chuyển, phải bò lom khom chậm chạp.

Rồi trời bắt đầu sáng. Mặt trời chưa lên, chân trời phía đông chỉ mới bắt đầu ửng hồng, ánh sáng chưa đủ để xua đi màn sương đêm còn dày dặc. Tiểu đoàn ra lệnh cho các đại đội chuẩn bị đưa thương binh ra sát bờ biển để tàu nhỏ vào tải thương. Thấy có mấy người đàn bà và con nít nằm gần tuyến của đại đội, Trung úy Huy bảo họ:

– Sắp có tàu vào tải thương đó. Mấy chị chạy lại phía kia thử xin ra tàu lớn coi họ có cho không.

Đám đàn bà con nít mừng rỡ lết khỏi giao thông hào. Một đứa bé trai khoảng 9 tuổi định nhổm dậy chạy cho nhanh, người mẹ vội níu chân kéo con lại. Thằng bé ngã sấp trên cát, khóc ré lên. Lãng gắt:

– Bịt mồm nó lại. Chạy lẹ đi không tụi nó nổ cho vài phát bây giờ.

Thằng nhỏ bắt đầu biết sợ, bắt chước mẹ và những người bên cạnh nằm sấp xuống, trườn về phía bờ biển. Họ khuất hẳn sau màn sương.

Độ mười phút sau, bóng đen chiếc tàu hiện lờ lờ sát bờ biển. Trung úy Huy nói với đám lính ở gần:

– Tụi bây yên chí đi. Tàu vào tiếp tế đạn cho tụi mình. Chơi ngon tụi mình sẽ xông lên dần nát chúng nó rồi thơ thới xuống tàu. Tiếc quá, hôm qua ở Huế mấy đứa khuân về được một lô súng đạn mới muốn mang theo, tao lại nạt bảo bỏ lại. Chút nữa thằng Lãng với thằng Hà đi lên Tiểu đoàn lãnh đạn. À, xin thêm lương khô cho hôm nay nữa. Thế nào tàu cũng chở thêm lương khô cho bọn mình.

Họ chờ mãi, chờ mãi vẫn không thấy Tiểu đoàn gọi. Chiếc tàu nhỏ tải thương đã ra khơi từ lâu. Sương đã tan, mặt trời đã nhú lên khỏi mặt biển xám. Ngoài khơi xa, ngoài chiếc HQ 801 hôm qua, có thêm nhiều chiếc tàu nhỏ đang lăng xăng chạy qua chạy lại như những con gà con ríu rít bên chân mẹ.

Không kiên nhẫn được nữa, Trung úy Huy nới với Thiếu úy Kiểu:

– Mày nằm ở đây chỉ huy. Tao lên Tiểu đoàn coi.

Ông ngần ngừ một lúc, rồi bảo Lãng:

– Lãng đi với tao. May ra có gì đem về xài đỡ.

Hai thầy trò bò về phía công sự Tiểu đoàn bộ. Xác Thiếu tá Tiểu đoàn phó được đưa ra tàu lớn mặc dù thủy thủ đoàn ban đầu nằng nặc không chịu chở xác, bảo cứ chôn quách tại chỗ cho xong đi. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng phải quát:

– Các ông cứ mang xác ông ra cho tôi. Tụi tôi sẽ làm lễ thủy táng ổng. Không chịu thì các ông phải ở lại đây ăn đạn Việt cộng với tụi tôi.

Lúc Trung úy Huy và Lãng tới, không khí trong hầm Chỉ huy Tiểu đoàn vẫn còn căng thẳng. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mặt mày nhăn nhó, giọng bực tức:

– Thế này là thế nào! Đù mẹ giặc đuổi tới sau lưng mà thằng lớn thằng nhỏ chỉ lo trốn. Tụi nó không biết nhục hả. Đào ngũ trong thời chiến quân luật phải đem bắn bỏ. Đù mẹ từ rày về sau anh em binh chủng khác nhìn lính mũ xanh còn ra cái nước mẹ gì nữa.

Thấy xếp đang giận dữ, Trung úy Huy không dám hỏi gì. Ông Tiểu đoàn trưởng chửi thề thêm một tràng nữa mới nguôi bớt cơn giận, quay lại hỏi Trung úy Huy:

– Còn ông sao còn ở đây?

Trung úy Huy biết xếp nói mát, cười trừ, chỉ hỏi:

– Họ có cho thêm đạn không Thiếu tá?

– Đạn cái con cặc. Đù mẹ họ bỏ rơi tụi mình rồi.

– Tàu lớn không chịu vào vớt à?

– Tàu nào? Không. Tao nói mấy xếp lớn. Ngài Lữ đoàn trưởng chuồn theo tàu tải thương rồi. Lữ đoàn phó cũng chuồn theo. Ông bạn Đại tá Biệt động quân toa toa moa moa mấy ngày nay với các giả cũng theo luôn.

Trung úy Huy vừa giận vừa tủi nhục đến choáng váng, nghẹn lời. Một lúc sau ông hỏi Thiếu tá:

– Vậy bây giờ lữ đoàn ai chỉ huy?

– Thiếu tá Cang, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7. Ông cho đại đội của ông rút về phía sau, để tuyến cho Tiểu đoàn 7 tới trám. Họ di chuyển bằng xe, đạn dược còn khá hơn tiểu đoàn mình.

– Bàn giao tuyến rồi Đại đội 3 làm gì?

– Tập trung chờ tàu vô bốc. Chỉ còn hơn hai đại đội thôi. Thằng So đã dẫn cả đại đội theo tàu tải thương hồi nãy rồi. Phần lớn Đại đội Chỉ huy lo tải thương cũng dọt luôn. Chán thấy mẹ!

– Sao tàu không vào vớt mình ban đêm mà lại vào ban ngày?

Giọng Thiếu tá bực dọc, gay gắt:

– Mày tưởng tao biết nhiều hơn mày hay sao? Chỉ cần biết là chút nữa sẽ có tàu nhỏ vô đón. Tiểu đoàn mình được lên tàu trước tiên, rồi tới Tiểu đoàn 3 rồi Tiểu đoàn 5. Tiểu đoàn 7 nằm lại bắn chận hậu sẽ rút lên tàu sau cùng.

– Ai xếp đặt thứ tự đó vậy?

– Ông Cang Tiểu đoàn 7.

Trung úy Huy lại ngột thở vì xúc động. Ông cố dằn xúc động, nói:

– Ít ra cũng còn những lính mũ xanh xứng đáng. Để nếu thoát khỏi đây, tôi còn dám đội chiếc mũ xanh lên đầu.

Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng nhìn đăm đăm vào mặt viên trung úy, im lặng hồi lâu, không nói gì. Dường như ông cũng cố dằn xúc động. Ông vỗ vai Trung úy Huy, nói nhỏ:

– Thôi mày rán về lo cho anh em rút an toàn. Tao hiểu mày.

***

Từ lúc hừng đông, phía địch vẫn bắn lẻ tẻ về phía giao thông hào của tuyến phòng thủ trên đụn cát, cho nên việc trao tuyến lại cho Tiểu đoàn 7 để rút về vòng giao thông hào gần bờ biển hơn tiến hành chậm chạp, mỗi lần cho vài người rút phải bắn dọa về phía địch để bảo vệ. Gần nửa giờ, Đại đội 3 mới giao tuyến xong, và nằm an toàn tại giao thông hào chỉ cách mép nước chừng một trăm thước. Nắng bắt đầu lên. Đồ đạc bỏ vất vương vãi chiều hôm trước không còn, vì đêm qua nhiều người đã lấy bạo bò ra thu về, mong được một ít thức ăn hay áo ấm để chuẩn bị lên tàu. Nếu tàu cập bến, Đại đội 3 phải vượt qua bãi cát trắng nguy hiểm này. Trung úy Huy nhìn bãi cát trắng phẳng lặng vắng vẻ. Ông chua xót nhận thấy tự nhiên bãi cát đẹp quá, đẹp hơn hẳn mức thường. Sóng đêm qua cuốn trôi hết rác rưới, nên bãi cát vàng óng, êm mượt. Nếu không có những họng súng hờm sẵn của Bắc quân, ông sẽ cởi giày đi chân trần trên bờ biển, cát mịn sẽ ve vuốt lòng bàn chân nứt nẻ của ông, nước biển trong xanh sẽ len vào kẽ chân ông, vỗ về mơn trớn gót chân ông, trong khi gió mặn luồn vào râu vào tóc ông. Ông nhớ đến những buổi trốn học tắm biển ở Nha trang, những tối hò hẹn ông bị người yêu hờn trách vì trong đam mê, ông làm cho cát bay tứ tung, lọt vào mái tóc chải kỹ của nàng. Vẻ thanh bình kỳ lạ của bãi biển đầu tiên làm cho Trung úy choáng ngợp, sau đó làm cho ông sợ.

Theo kinh nghiệm chiến trường, ông biết những phút im lặng như thế này đáng ngại hơn những lúc ồn ào tiếng súng. Đó là khoảng trống căng thẳng báo trước những cơn bão lớn, là giây phút nín thở để chuẩn bị bóp cò khai hỏa. Chốc nữa đây, con tàu nhỏ ngoài kia sẽ quay mũi vào bờ. Bắc quân đóng ở cao điểm tất nhiên thấy rõ từng bước di chuyển của con tàu. Họ đã sẵn sàng. Đã chỉnh lại đường nhắm. Đã kiểm lại dây đạn. Đã mở khóa an toàn. Con tàu tiến vào bờ gần hơn là lúc họ sẽ nháy mắt nhau ra hiệu chuẩn bị. Dập điếu thuốc đang hút dở. Ngưng nhai thỏi lương khô Trung quốc. Gài lại cái mũ cối. Sửa lại thế nằm.

Trung úy Huy biết bãi cát rộng không đầy một trăm thước trước mặt sẽ là bãi chiến trường đẫm máu, là vùng oanh kích tự do mà những tấm bia thịt có thể là ông, có thể là Lãng, có thể là Thiếu úy Kiểu, có thể là chú hạ sĩ mang máy truyền tin, có thể… có thể… Sống chết, cái ranh giới mong manh ấy tùy thuộc vào rủi may, hay sức mạnh của đôi chân. Ông biết Tiểu đoàn 7 có thể bắn bảo vệ cho em út ông rút, nhưng con mắt nhà nghề cho ông biết là địch giữ được thế chủ động. Ông tự nhủ thầm: “Phải hết sức bình tĩnh nghe con. Phải chạy thật nhanh như tia chớp, chân không được run. Run chân lạng quạng ngã xuống là hỏng hết. Là hàng trăm viên đạn sẽ cắm vào thân con. Rán bình tĩnh, đừng sợ gì hết. Sống thì may, chết thì thôi việc gì mà sợ”.

Rồi ông đâm ra chua chát ai oán: “Vì sao, do đâu mà phải bị đẩy tới tình cảnh cùng đường phi lý này? Một trí thông minh tối thiểu chỉ hơn bọn bệnh nhân bệnh viện điên Biên Hòa một sợi tóc cùng đủ biết là không gì dại dột cho bằng rút ra tàu ngờ ngờ giữa ban ngày như thế này. Tại sao không cho rút đêm qua? Tại sao không tăng cường vũ khí để cả lữ đoàn ào lên đánh bật Bắc quân qua bên kia phá, lúc ấy rút lui thảnh thơi mà khỏi sợ bị bắn bia? Tại sao cấp lớn bỏ chạy? Tại sao rút lui vội vã và vô trật tự? Tại sao? Tại sao?”

Trung úy Huy không dám nghĩ tiếp nữa, càng nghĩ càng nổi giận vô ích, mất sức khỏe. Hãy để trí óc tỉnh táo mà chạy cho qua một trăm thước bãi cát sinh tử này. Ông nhìn bãi cát một lần nữa, rồi đâm sợ. Miệng ông lâm râm khấn lúc nào ông không hay: “Lạy Đức Phật cứu con, Lạy Đức Phật cứu con”. Ông nghe được lời khấn của chính mình mà cứ tưởng là Lãng khấn, vì miệng Lãng cũng mấp máy. Tới lúc biết rõ chính vì sợ mà cầu cứu Đức Phật che chở, ông ngượng. Phật nào chịu độ cho ông? Ông đi chùa chỉ cốt để tán gái, chưa hết, cô bồ Phật tử nhiều lần phát khóc chỉ vì ông đem các ông sư chú tiểu ra giễu bằng những chuyện tiếu lâm. Cô bồ ấy bỏ ông một phần cũng vì ông bất kính với các sư chú sư bác. Đã thế ông còn ích kỷ tới độ chỉ cầu Phật cứu một mình ông thôi, mặc xác đám em út vào sinh ra tử bao nhiêu năm ở vùng hỏa tuyến với ông. Trung úy Huy e dè tìm một lời khấn khác. “Lạy Chúa cứu chúng con!” Vẫn không ổn. Ông tin Chúa hồi nào đâu, mà lúc hoạn nạn chạy tới núp dưới chân Chúa. Ông đi lễ chỉ vì các thiếu nữ Công giáo đến nhà thờ mỗi chủ nhật lúc nào cũng ăn mặc đẹp đẽ, họ vừa có một vẻ đẹp sang trọng lại vừa có nét mặt thánh thiện, khiến ông cảm thấy an toàn mở lời ve vãn, như một kẻ táo tợn mặc sức ra trò trước đám chiên ngoan vô tư. Đừng xớ rớ mon men đến bên Chúa. Vậy thì còn biết cầu cứu ai đây? Trung úy chợt nhớ tới ông ngoại. Lúc nhỏ tuy cậu bé Huy rắn mắt thường bắt nạt các đứa cháu khác của ông ngoại nhưng lại được ông thương nhất. Ông bảo với mẹ Huy: “Thằng này về sau sẽ phát tướng”. Ông mất cách đây bốn năm, Trung úy không về phép dự đám tang được chỉ viết thư về chia buồn với bà ngoại. Lá thư ngắn hiếm hoi ấy làm cho bà ngoại cảm động. Bà ngoại bảo mẹ viết thư cho Huy là đêm đêm nhớ khấn vái cầu ông ngoại phù hộ cho khỏi vướng tên bay đạn lạc. Trung úy yên tâm lâm râm khấn: “Ông ơi cứu con, ông ngoại ơi, phù hộ cho anh em chúng con”. Ông mỉm cười khi nghe Lãng lâm râm khấn: “Ba phù hộ cho con. Ba ơi, xin ba cứu con!”

***

Ngoài khơi, một chiếc tàu nhỏ đang chạy ngang bổng xoay mũi rồi đâm thẳng vào phía bờ. Tàu sắp vào để vớt những Thủy quân lục chiến còn lại của lữ đoàn đây. Lãng reo lên:

– Nó vào rồi ông thầy. Ba ơi, ba phù hộ cho con!

Trung úy Huy nuốt nước bọt không trả lời. Không thể trả lời được. Tim ông đập loạn xạ, hai thái dương ông buốt lạnh. Nước miếng đắng nghét. Ông lướt mắt đo lường bề rộng của bãi cát sắp trở thành bãi tử thần. Sát mé nước, tuyến giao thông hào cuối cùng có bờ khá cao về phía trong. Nếu thoát được bãi cát trống này thì tạm thời có thể nằm chờ an toàn ở đó. Nhưng sao bãi cát rộng quá thế này! Một trăm thước. Không. Ít ra cũng phải một trăm rưởi thước, hai trăm thước.

Chiếc tàu vào gần hơn thì súng của Bắc quân bắt đầu nổ. Tiểu đoàn 7 cũng bắt đầu nổ súng. Tiếng súng mỗi lúc một dày, đạn bay véo véo đan chặt một góc biển. Hai hàm răng trung úy Huy đập vào nhau cầm cập, ông phải lấy hết sức cắn cho hai hàm răng sít lại nhau, dồn hơi thở lấy bình tĩnh, nhìn ngang kiểm soát lần chót cả đại đội, rồi hô lớn: “Dọt!”

Cả đại độ ùa nhau chạy băng qua bãi cát. Trung úy Huy thấy Lãng phóng ra khỏi giao thông hào như một con thoi, nhưng vừa ra khỏi bờ cát đã ngã sấp xuống. Ông khựng lại, vừa định tới đỡ Lãng dậy thì Lãng đã đứng dậy được, tiếp tục chạy. Trung úy yên tâm hơn, dồn hết sức lực lên đôi chân. Cát lún hơn bình thường. Chiếc giày cắm xuống mặt cát như bị giữ chặt lấy rút chân lên không nổi. Cứu được chiếc giày bên phải lại tới phiên bên trái bị cùm. Ông cảm thấy tuyệt vọng, tiếng động hình sắc chung quanh đột nhiên không còn cái gì rõ ràng nữa. Đạn nổ xé trên đầu ông, bay xẹt chung quanh ông mà ông không nghe. Cái gì cũng trở thành “dường như”. Dường như miệng ông không ngớt kêu “ông ơi cứu con, ông ơi cứu con”. Dường như ông đã bị thương vì sau lưng áo ông ướt đầm, và có thứ nước gì đó bắt đầu chảy dọc theo sống lưng. Dường như có người nào đó ngã xuống. Dường như có tiếng kêu thét lên vì đau đớn. Dường như ông vừa dẫm lên một cái gì mềm nhũn và nếu ông không kịp gượng dậy thì đã ngã sấp lên mặt cát. Dường như bãi cát trước mắt cứ lùi dần ra xa, bờ giao thông hào phía trước đang chơi trò cút bắt với ông. Càng lúc mọi vật trước mắt ông càng mờ ảo lung linh, tai ông chỉ nghe những tiếng u u điểm nhịp bằng những tiếng lùng bùng khó nghe.

Ông chạy tới giao thông hào lúc nào, không biết. Ai đỡ ông ngồi dậy sau khi Trung úy vấp bờ cát và ngã chúi vào giao thông hào, không hay. Ông ngồi bệt trên bãi cát ướt, thở hào hễn, mất hồn.

Lúc lấy lại bình tĩnh, Trung úy nghe được tiếng sóng vỗ vào bờ, mới biết là tiếng súng cả hai bên đã ngưng. Vội quay ngoắt lại nhìn bãi cát sau lưng, tim ông nhói đau. Nước mắt ông trào ra. Xác đàn em của ông nằm la liệt khắp bãi cát mà bây giờ, ông thấy là quá hẹp. Ông cúi xuống khóc như đứa trẻ con, không dám nhìn bãi tha ma trước mặt, không dám chăm chú nhìn quần áo và ba lô của từng xác chết để biết rõ ai còn ai mất, dù Trung úy biết rằng chỉ cần nhìn phớt qua, ông cũng biết người nằm phơi dưới ánh nắng là ai. Ông đưa tay sờ lưng áo, rồi nhìn bàn tay trái của mình. Không phải máu. Ông đã may mắn thoát nạn. Nhưng hai phần ba đại đội ông đã phơi xác ngay trước mặt ông. Chưa bao giờ đại đội ông phải trả cái giá đắt đỏ kỳ cục như vậy. Ông nổi cơn giận:

– Đù mẹ tụi khốn nạn!

Rồi ông muội đi, ngồi thẫn thờ, không nói năng!

Chiếc tàu nhỏ đã vào tới gần bờ, nhưng không đậu lại hoặc lái sát hẳn vào mé nước. Con tàu cứ chạy qua chạy lại nhiều vòng cách bờ khoảng vài trăm thước, như chưa tìm được bến đậu nào an toàn.

Trên bãi cát, tiếng súng địch đã im, không hiểu vì họ đã hết đạn hay đang chờ tiếp tế để mở một cuộc tàn sát khác. Vì nguyên do nào mặc kệ, im tiếng súng được độ 15 phút là thiên hạ lại ùa ra bãi, từng toán cả dân lẫn lính cứ chạy lúp xúp theo con tàu ngoài xa, tàu tiến về hướng nào họ chạy dạt về hướng nấy. Trung úy Huy trở lại bãi nhận diện những đứa em đã bỏ xác trên đoạn đường tử thần. Ông không còn nước mắt để khóc nữa, mắt ông đỏ ngầu không phải vì khóc thương cho những bạn đồng đội xấu số, mà vì giận dữ.

Lính Quân y của Lữ đoàn chia từng toán đi cấp cứu những người chưa chết. Họ làm việc bình tĩnh, nhanh nhẹn, không có dấu vết bối rối sợ hãi nào. Ông Huy quan sát phong thái của họ, hối hận lâu nay xem thường những người đồng binh chủng nhưng lo việc chuyên môn này.

Thiếu tá Thành Tiểu đoàn trưởng đến giao thông hào của Đại đội 3 gặp Trung úy Huy. Viên trung úy kinh ngạc thấy xếp của mình vẫn còn giữ được bình tĩnh. Cũng lạ. Tiểu đoàn phó bị địch bắn nát mặt. Đại đội trưởng Đại đội Chỉ huy trốn xuống tàu bỏ lính lại. Một đại đội trưởng khác dẫn nguyên đại đội lên tàu tải thương lánh nguy hiểm. Đại đội của Trung úy Huy bị banh gần hết. Thế mà ông vẫn chạy tới tận những chỗ có lính của Tiểu đoàn ông để thăm hỏi, hướng dẫn cho họ. Thấy mười mấy người lính Đại đội 3 nằm cạnh Trung úy Huy muốn chạy theo đám đông, Thiếu tá Thành nói nhỏ với Trung úy:

– Anh dẫn con cái lên chỗ kia đợi. Chiếc này vào rước ưu tiên Tiểu đoàn của mình đấy.

Thiếu tá Thành đi rồi, Trung úy Huy gọi riêng đám con cái lại, rồi xốc ba lô lẳng lặng đi về phía điểm hẹn. Chỗ tàu sẽ vào cách đó gần cây số.

Thật uổng công Thiếu tá Thành kín đáo chỉ dẫn điểm hẹn cho lính Thủy quân lục chiến của ông. Càng gần tới chỗ Thiếu tá Thành chỉ, Trung úy Huy càng thấy nhiều toán người cùng đi về phía đó. Tới nơi, tình trạng dồn cục hỗn loạn chẳng thua gì cảnh chen nhau lên ghe khi qua phá Tam giang hôm trước. Lãng than:

– Cả vạn con người thế này ai đi ai ở. Chiếc tàu nhỏ kia chở sao cho hết, ông thầy?

Trung úy Huy nhìn con tàu vẫn còn chạy lượn lờ ngoài biển, nói:

– Ép lắm, chỉ chở được một nghìn người là tối đa. Tụi bây lên đạn đi, tàu dành cho tụi mình, cứ lấn tới trước mà lên tàu.

Số lính Thủy quân lục chiến còn lại đã lục tục kéo đến đông đủ. Đám đông ô hợp trước mặt họ dày đặt, ai cùng cố chen cho được tới gần mép nước để lên tàu trước mọi người. Tiếng con nít khóc như ri, vì sợ, vì lạc cha mẹ, cũng có thể vì bắt đầu ngộp thở giữa cái khối mồ hôi nồng nặc này.

Lính của Trung úy Huy chen được ra tới trước không mấy khó khăn. Dường như cả dân lẫn lính rã ngũ của các binh chủng khác đều biết rõ chiếc tàu sắp vào bến kia có nhiệm vụ rước ưu tiên lính Thủy quân lục chiến, nên thấy những bộ đồ rằn ri và họng súng sẵn sàng nhả đạn, mọi người tự động giạt ra cho lính Thủy quân lục chiến ra phía trước.

***

Chiếc tàu nhỏ đã ngưng lượn lờ theo bề dài bãi biển, và từ từ tiến vào điểm hẹn. Tàu đậu cách xa bờ một khoảng cách Lãng nghĩ là không xa lắm, chỉ cần phóng vài sải là tới. Chiếc tàu hạ bửng xuống, mở rộng cửa chờ đón mọi người.

Thế là cái khối người đông nghẹt đang chờ chực trên bờ bắt đầu lên cơn mê sảng, không còn chủ động được nữa, bị cái guồng máy khổng lồ ma quái đẩy ra phía trước, muốn chống lại, muốn tách ra ngoài cũng không được. Lãng muốn quẳng cái ba lô trên vai đi mà cũng không có thì giờ. Phía sau cứ đẩy tới. Hàng lính Thủy quân lục chiến phía trước bị đẩy xuống biển, nước lên tới đầu gối, nước lên tới ngực. Con tàu phía trước rộng lượng hạ bửng chờ, nhưng bây giờ Lãng mới thấy từ bờ ra tàu không gần như Lãng tưởng. Không dễ, chỉ phóng vài sải là tới. Khoảng cách mênh mông y như bãi tử thần mà đại đội Lãng đã vượt qua sáng nay. Khác chăng là bây giờ cái chết không khô, mà ướt.

Nước đã lên tới cổ. Một đợt sóng lớn ụp vào bờ, nâng bổng Lãng lên. Lãng uống phải một ngụm nước biển mặn chát, ho sặc sụa, lúc hoàn hồn thì thấy mình bị sóng đẩy lùi trở lại bờ, nước chỉ lên đến rún. Cái ba lô trên vai đã bị cuốn mất từ lúc nào không hay. Nhưng rồi Lãng lại bị đám đông phía sau đẩy tới. Nước lại lên tới ngực, rồi tới cổ. Phía trước, nước biển không còn màu xanh mà trở thành mầu đen, vì vô số những đầu tóc lô nhô khi chìm khi nổi trên mặt sóng. Lãng mới chuẩn bị lấy thế đạp mạnh xuống đáy cát để lấy đà mà bơi, thì một đợt sóng lớn khác ập tới. Đám lục-bình-người rã ra, người bị nhận xuống đáy, người bị nâng bổng lên quật trở lại bờ. Lãng thì bị sóng cuốn ra xa, chân đã hụt không còn chạm được tới mặt cát.

Lãng dồn hết sức vào tứ chi để bơi cho nhanh ra tàu, càng bơi càng vô vọng vì tự liệu sức mình, Lãng biết không thể nào tới đích, nếu lại có những đợt sóng lớn đẩy ngược vào bờ. Chân tay Lãng mỏi đừ, mắt hoa. Ba ơi, xin cứu con. Con không muốn chết đuối ở đây. Xin ba gửi cho con một đợt sóng thần, đẩy bớt những người đang ngụp lặn làm vướng víu con vào bờ, rồi cuốn con một mạch ra xa, đưa con đến tận cái bửng an toàn của chiếc tàu kia.

Lãng uống thêm nhiều ngụm nước mặn chát nữa, sức yếu dần, đến lúc tuyệt vọng thì hồn thiêng của ông Văn gửi tới cho Lãng một cái phao. Một cái ba lô trôi bập bềnh ngay trước mặt Lãng. Lãng mừng rỡ chụp lấy cái ba lô. Cái ba lô bị sức nặng của Lãng làm chìm xuống, rồi lại nổi lên. Yên tâm hơn, Lãng nhìn ra phía con tàu. Một số người bơi giỏi đã tới nơi, bắt đầu leo lên cái bửng hạ gần sát mặt nước. Lãng thèm thuồng được như họ, tâm trạng phức tạp nửa thán phục nửa ganh tị. Nhìn vào phía bờ, người ta vẫn tiếp tục đẩy nhau rơi xuống lòng biển, nhưng đã có những người quần áo ướt sủng bị sóng đẩy vào bờ bằng lòng ở lại chịu trận, tự biết sức không thể bơi ra tới con tàu ngoài kia. Lãng đã đỡ mệt, tự nhủ: “Có phao rồi, phải bơi cho tới nơi tới chốn”. Anh bắt đầu bơi ra khơi, và theo kinh nghiệm, cố bơi xa những người cùng đang bơi quanh mình. Số người leo được lên tàu đông hơn. Lãng thấy rõ có người bám được vào mép bửng tàu, nhưng yếu sức không lấy đà đu người lên được, trầy trật mãi mới trườn lên nằm gọn trên mặt bửng như người chết. Có người bám vào thành tàu, nhờ người đã lên trước kéo lên, rồi trong một cơn sóng mạnh tàu chao mình, cả hai đều ngã xuống biển. Lãng mừng vì nghĩ: nếu mình đã nhìn rõ như thế, nghĩa là đã gần tới tàu. Nhưng nhìn trở vào bờ, Lãng cũng thấy rõ từng chi tiết một. Thôi cứ rán bơi đi.

Một người bơi gần tới chỗ Lãng. Hình như anh ta đã đuối sức. Lãng đẩy mạnh hai chân để tránh xa đề phòng. Người lạ chìm xuống rồi trồi đầu lên được, chỉ cách Lãng có hai sải tay. Lãng nghe anh ta nói giọng Huế:

– Anh ơi… cho em ra tàu với.

Lãng vội la lớn:

– Không. Tôi đang lội vào bờ.

Người lạ định nói gì nữa, nhưng mặt anh ta lại chìm xuống. Rồi anh ta lại nổi lên, lần này kề sát chỗ Lãng. Người sắp chết đuối cứ bám chặt lấy người Lãng. Cái phao ba lô thấm nhiều nước, không đủ sức nặng hai người nên chìm nhanh. Một con sóng lớn ập tới. Lãng bị tuột tay khỏi quai ba lô, và người lạ cũng vuột tay không còn bám vào Lãng nữa. Trời và nước quay cuồng đảo điên. Lãng lấy lại đầy đủ hiểu biết lúc chân chạm vào mặt cát. Con sóng đã đẩy Lãng vào bờ. Nước biển chỉ ngập đến rún Lãng mà thôi. Lãng mừng vì thoát chết đuối, lâm râm khấn: “Ba đã cứu con. Con cảm ơn Ba đã phù hộ cho con qua được tai nạn. Biết có Ba luôn luôn theo bảo bọc con, con yên tâm”. Và Lãng quyết định lội vào bờ.

***

Có giọng cười ha hả của Trung úy Huy, và câu nói đùa trái khoáy giữa hoàn cảnh bi đát thê thảm chung:

– Ê, Lãng. Con gà chết ướt. Sao mày không lội ra tàu?

Lãng vuốt nước trên mặt nhìn về hướng Trung úy. Quần áo ông cũng ướt sũng như Lãng, nhưng ông lại đang ngồi nhậu với hai người lính quần áo còn khô, ngay trên bãi cát, ngay bên cái dòng người vẫn tiếp tục xô đẩy nhau ra tàu.

Lãng cảm thấy phấn chấn hẳn lên. Anh tới gần chỗ họ, hỏi xếp:

– Sao Trung úy không bơi ra?

– Bơi đéo được. Tụi kia ngụp lặn làm sao mà ra được tàu, giỏi thật.

Thấy Lãng nhìn về hai người lính thuộc binh chủng khác đang nhậu với xếp, Trung úy Huy nói:

– Làm một ly cho ấm rồi tính. Tên này là Sỹ thiếu úy Pháo binh Tiểu đoàn 2. Tên này là Lộc Phân chi khu trưởng Gia hội. Rượu của thằng Lộc mang theo, còn nhiều lắm, mày cứ uống thả giàn.

Hai ông sĩ quan khác binh chủng có lẽ là bạn cũ của Trung úy Huy, nên Lãng nghe họ xưng mày tao với nhau, ăn nói tự nhiên không khách sáo. Trung úy Huy hỏi ông thiếu úy Pháo binh:

– Sao mày không ra tàu?

Viên thiếu úy hỏi lại:

– Còn mày sao mày không ra?

– Tao suýt chết đuối.

Viên thiếu úy cười một tiếng, cái cười nhếch mép vừa thân ái vừa đểu giả rồi nói:

– Tội nghiệp cho con quá, con ơi. Con chen lấn lội ra tới sắp chết đuối rồi lại lên bờ. Bố con ngồi đây nhậu để xem những thằng suýt chết đuối như con, bố cũng ở trên bờ. Nhưng quần áo của bố khô ran.

Trung úy Huy nốc một nắp bi đông rượu trắng, gật gù:

– Mày nói cũng có lý.

Lãng giữ ý chỉ ngồi im uống rượu chứ không dám góp chuyện với ba sĩ quan ngồi bên. Nhờ mấy nắp rượu, Lãng cảm thấy ấm áp trở lại. Máu chạy rần rật trong thân, bụng bắt đầu thấy đói. Nhưng tìm đâu ra cái ăn bây giờ? Lãng nhìn quanh. Nhiều người khác lóp ngóp từ dưới nước lên bờ, họ ngồi vật xuống ngay ở mép nước để mặc cho sóng dập lên người, hoặc nằm sõng soài lên bãi cát không nói năng. Có người khóc vì không ra được tàu. Có người cười mừng vì vừa thoát chết, trong lúc đó dòng người cứ cuồn cuộn đổ xuống biển, không hề quan tâm đến những cái gương thất bại đang diễn ra trước mắt.

Trên bờ, những người quần áo còn khô đứng ngồi không yên, nhí nhổm bất quyết, vừa sợ bị chết đuối, lại vừa muốn liều lĩnh lội ra tàu.

Cảnh ngồi nhậu an nhiên của ba ông sĩ quan thật không giống ai. Nhưng ngoài bốn người ngồi bao quanh bi đông rượu trắng trên bãi biển còn nhiều người khác quần áo khô và giữ được vẻ an nhiên. Đó là các toán Quân y của Lữ đoàn Thủy quân lục chiến. Họ tự động thành lập những toán cấp cứu, làm việc nhanh nhẹn hữu hiệu chứ không hề rối loạn vì hoàn cảnh chung. Bãi biển đầy đặc những người bị nạn, hoặc vừa thoát chết đuối nằm bệt trên bờ hoặc bị dẫm lên người lúc chen lấn. Có người bị đạn vì giành đường thoát thân. Các toán cấp cứu lăng xăng tới tiêm thuốc trợ lực cho người này, làm hô hấp nhân tạo cho người kia, băng bó cho người nọ. Trung úy Huy nhìn nước da mai mái và mớ tóc dài mềm phủ ót của ông bạn thiếu úy Pháo binh, rồi nhìn những toán Quân y cấp cứu, chậm rãi nói:

– Phải nhận là mày ngon hơn tao. Nhưng còn thua xa mấy ông bạn kia. Họ mới xứng là những con người.

Nguyễn Mộng Giác


   Số lần đọc: 148

Tác Phẩm

BÀI KỀ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây