Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Thư gửi một người bạn trẻ

Anh Thanh thân mến,

Chắc Thanh ngạc nhiên khi đọc lá thư đăng báo này, thay vì nhận được một lá thư riêng dài cũng bằng lá thư Thanh gửi cho tôi. Việc công khai hoá tâm tình riêng tư giữa tôi và Thanh có vẻ như bất thường. Nhưng những điều Thanh nêu ra, và những gì tôi suy nghĩ có lẽ liên quan đến nhiều người khác, nên tôi xin phép dùng hình thức “chung chạ” này để giải bày. Mong Thanh tha lỗi cho.

Tôi mừng rằng lời lẽ trong thư Thanh chứng tỏ Thanh đã có một đời sống tinh thần vững chãi. Ðã đặt ra những vấn đề lớn, đã đưa ra những xác quyết có định hướng như “Sứ mệnh người cầm bút”, “Viết làm sao, viết cái gì để có lợi cho vận hội mới”, “Trách nhiệm của báo chí trước vận mệnh đất nước”.

 

Thú thực, tôi vẫn có thói quen không mấy nghiêm chỉnh là sau khi đi làm về, thường tắm một phát, rồi nằm khềnh lên ghế xa-lông đọc thư của bạn bè vừa gửi tới. Vừa đọc vừa cười khúc khích một mình, hoặc vửa đọc vừa bâng khuâng nhớ tiếc. Ðọc đến thư Thanh, tôi vội ngồi dậy ngay ngắn, không đến nỗi phải kéo lại cổ áo và vuốt các nếp nhăn trên chiếc áo ngủ nhàu nhò, nhưng nét mặt tôi mất hẳn vẻ thụ hưởng phè phỡn hay mơ mộng lãng mạn.

 

Xin Thanh đừng nghĩ tôi có ý mỉa mai đùa cợt. Không đâu! Những vấn đề Thanh nêu ra đều rất lớn, và không phải chỉ bây giờ tôi mới sửa lại thế ngồi, nghiêm lại nét mặt.

Hồi còn đôi mươi, đám bạn bè làm báo Xuân trung học chúng tôi cũng đã đặt những câu hỏi trầm trọng kiểu đó. Ba mươi tuổi, bước chân vào làng văn, những bạn văn đồng lứa với tôi cũng nhắc lại những câu hỏi đại loại ”Viết làm gì ? Viết cho ai? Tại sao viết ?“. Có người mải lo giải đáp những câu hỏi lớn ấy nên chẳng viết được gì cả. Có người thông minh tìm ngay được lời đáp, đồng thời cũng nhận thấy viết lách chẳng đi tới đâu. Hồi đó, tướng Nguyễn Khánh bảo “Một cây bút mạnh bằng một sư đoàn“. Nhưng cái sư đoàn ấy được cấp súng mà không được cấp đạn, chưa kể thứ súng chính quyền cấp cho toàn là súng nhựa, nên một số bạn tôi vứt bút xoay sang hành động, rồi lãnh sẹo, hay làm con chốt thí.

Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ, nửa đất nước ở miền Nam sa vào tay cộng sản, tôi lại phải nghe các quan văn nghệ nhai lại những câu hỏi trên. Viết thế nào ? Viết cho ai? Chưa đủ ! Họ còn dạy cách nhìn nữa kia. Nhìn thế nào cho phù hợp với quan điểm lập trường, phân biệt cho ra bản chất và hiện tượng, cái nhất thời và cái tất yếu! Chơi khó anh em cầm bút quá ! Chẳng những phải học cách nhìn hiện tại, lại còn phải đoán trúng phóc tương lai tươi sáng từ cái mớ hiện tại rối rắm, nhầy nhụa, tối tăm, nhếch nhác, quái đản ấy. Hồi đó, đọc những lời các quan văn nghệ Hà nội phán trên báo chí sách vở quốc doanh, tôi đã từng nghĩ thầm: “Nếu các ngài thông kim bác cổ, quan điểm thông suốt như vậy, thì viết phăng ra thành thơ thành truyện, việc gì phải tốn thì giờ giảng ra rả hết năm này đến năm nọ!”.

Bọn làm thơ như Thanh cũng không được ở ngoài vòng cương tỏa đâu ! “Lãnh tụ” đã dạy :

Nay ở trong thơ nên có thép.
Người làm thơ cũng phải biết xung phong.

Thơ có thép ? Dễ ợt! Nhưng xung phong đi đâu? Các quan văn nghệ Hà nội bảo phải chăm đọc xã luận nhật báo Nhân Dân, tạp chí Cộng sản, phải đọc từng chữ, nhớ thuộc lòng các lời dạy bảo, để lãnh tụ bảo xung phong về hướng nào thì phóng thơ thép về hướng đó, bảo tiến một bước thì tiến đúng một bước đừng sốc nổi tiến quá đã sẽ bị khép vào tội ấu trĩ tả khuynh, bảo lui một bước thì lui đúng một bước, lui dài hơn là hữu khuynh xét lại. Khó dễ sợ! Nguy hiểm chết người, cầm bút luyện thơ thành thép tưởng an toàn như người ngồi trong xe bọc thép, nhưng vì cứ thấp thỏm lấm lét nghe còi chỉ huy, nên số phận người cầm bút dưới chế độ cộng sản chẳng khác nào thân phận người phải lái xe tăng chạy trên một sợi dây giăng trên vực thẳm.

Số phận những người vâng lệnh cán bộ tuyên huấn làm thơ có thép đã vậy, số phận những người chỉ làm được thơ tình lại càng khốn đốn hơn. Những người như Thanh chẳng hạn.

Thanh nhớ không, những bài thơ đầu tiên Thanh gửi cho tôi đọc. Những bài thơ ngập ngụa khói thuốc lá và hương cà phê. Những ngón gầy. Những tóc rối. Những nhớ thương. Những quằn quại, những da diết. Những freeway hun hút. Những campus quạnh hiu. Vì sao mà thơ Thanh hồi đó hiu hắt gầy guộc như vậy? Chỉ vì như Lamartine viết hồi xưa:

Un seul être vous manque, tout est dépeuplé.

Thơ Thanh hồi đó yếu xìu! Không biết những bài Thanh mới làm có còn yếu như thế không ? Chắc Thanh đã lột xác, đã choàng dậy vươn mình như Phù đổng thiên vương. Cách đặt câu hỏi trong thư Thanh khiến tôi nghĩ vậy. Tôi mong đọc được những bài thơ mới của Thanh, những bài thơ thép,

Nhưng trước khi đọc một số thơ Thanh làm theo sinh khí mới tìm được, tôi phải nói qua những điều tôi nghĩ về vấn đề Thanh đặt ra.

Như câu hỏi “Viết để làm gì ?“. Thiên kinh vạn quyển đã bàn về câu hỏi này. Nhiều cuộc bút chiến nẩy lửa, nhiều án tù đã phán do câu hỏi này. Ðại khái có hai câu trả lời chính : Viết để phục vụ cái đẹp, và Viết để phục vụ nhân sinh. (Nói văn hoa hơn thì bảo Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh). Phe chú trọng tới thẩm mỹ hình thức thì chọn cách trả lời trên. Phe có khuynh hướng xã hội thực tiễn thì chọn cách trả lời dưới.

Tôi cho rằng cả hai câu trả lời đều sai, vì nghệ thuật nói chung có nghĩa gì nếu nó không liên hệ đến con người, cuộc đời, tức là nhân sinh. Nghệ thuật dĩ nhiên phải phục vụ nhân sinh. Nhưng nhân sinh nào ?

Từ cách định nghĩa về nhân sinh này mới phát sinh mọi sự rắc rối. Người làm chính trị thì bảo nhân sinh chính là cái mẫu trật tự xã hội họ phác hoạ ra, và muốn văn nghệ sĩ phải gắng hết sức tô điểm cho cái mẫu ấy.

Nếu không có những cái phanh hãm bớt đà kiêu căng và tham vọng của người làm chính trị, thì người làm chính trị nào cũng muốn giới văn nghệ cúc cung tung hô công đức của mình bằng nghệ thuật, vì họ biết nghệ thuật trường cữu hơn những bản kiến nghị, được tiếp đón nồng nhiệt hơn những nghị quyết, thông cáo, sắc lệnh…

Ở Mỹ, không có chuyện tổng thống Reagan ra lệnh cho USIS triệu tập tất cả các đạo diễn, tài tử, nhà phê bình điện ảnh toàn quốc về thủ đô Washington để cũng nhau “học tập và phát huy tư tưởng của Tổng thống Reagan vĩ đại” qua các cuốn phim cao bồi hạng B Ngài đã đóng. Nhưng sự quái đản đó đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là dưới chế độ cộng sản.

Cái mẫu nhân sinh kiểu đó, Thanh ơi, tôi ngán lắm! Mỗi lần có một tay làm chính trị hoặc một bậc quyền thế hạ cố nhắn nhủ bọn cầm bút kém thế chúng tôi về sứ mệnh, về sức mạnh ngòi bút, về trách nhiệm, thú thực với anh, tôi ngại lắm. Tôi biết rõ khả năng hạn chế của mình, biết rõ khả năng hạn chế của chữ nghĩa, biết rõ nỗi cô độc trái mùa của việc viết lách. Biết rõ sự tiếp đón lạnh nhạt của độc giả đối với sách vở, nếu so với sự tiếp đón hào hứng sôi nổi họ dành cho các ca sĩ tài tử. Kể cũng phải, giới trình diễn đẹp đẽ hơn, ăn mặc chải chuốc hơn, rục rỡ sáng láng như những ánh hào quang trên sân khấu và giữa cuộc đời. Trong thời đại của tốc lực, của màu sắc và âm thanh điện tử, những dòng chữ viết lặng lẽ già mấy nghìn năm bao giờ cũng kém thớ.

Ðừng bơm phồng chúng nó lên, tội nghiệp ! Và chúng tôi, những người cầm bút, chúng tôi đã quen với nếp sống cô độc. Trước trang giấy trắng, giữa lúc mọi người đang say ngủ, chúng tôi một mình đối diện với mình, thoải mái tung tăng trong thế giới tưởng tượng, với chữ nghĩa ngoan ngoãn hay ương ngạnh, bởi vì chúng tôi đều là những kẻ khờ dại vụng về trong cuộc bon chen quyền lực.

Ðừng nâng cao chúng tôi lên quá, chúng tôi ngợp ! Hơn nữa, nâng cao chúng tôi lên rồi ấn vào tay chúng tôi một cái mẫu vẽ để bắt tô màu, ra lệnh cho chúng tôi cười khóc tiến lui theo nhịp còi, thì thà để mặc chúng tôi sống cuộc đời heo hút. Hình ảnh một sân khấu rực rỡ náo nhiệt , anh Thanh ơi, đối với tôi không đẹp bằng hình ảnh một ngọn đèn leo lét cô độc giữa đêm khuya. Trăm người trăm tính, và tính của hầu hết những người cầm bút tôi quen, đều như vậy !

Chúng tôi có cái mẫu nhân sinh của riêng chúng tôi, những người cầm bút. Cái mẫu đó không hề cao hơn, đẹp hơn, rực rỡ hơn cái mẫu những nhà chính trị đưa ra. Ngược lại là khác. Cái mẫu đó thấp hơn nhiều, tầm thường hơn nhiều. Tôi xin lấy một ví dụ:

Nhà chính trị đưa ra trình diện một mẫu người hùng. Anh ta đứng sừng sững như một pho tượng, môi bậm, mắt nhìn thẳng và sáng rực như hai ngọn đèn pha. Nếu một người cầm bút không vào guồng máy tả lại mẫu người hùng ấy, có thể anh ta sẽ vất hết các tài liệu ca tụng do cán bộ tuyên huấn phân phát. Anh ta vẫn quan sát khuôn ngực căng ấy, mái tóc húi ngắn ấy, dáng người vạm vỡ ấy. Nhưng giữa không khí trang trọng bừng bừng phấn khởi, có thể người cầm bút lại chú ý tới đường bay của một chú ruồi. Chú ruồi bay một vòng dò dẫm, rồi đậu lên mép người hùng. Người hùng cố giữ khuôn mặt tượng được nửa phút, một phút…Nhưng cuối cùng, mặt người hùng cau lại, nháy mắt vài cái để đuổi chú ruồi đi. Rồi người hùng hắt hơi.

Thanh thấy không, cái mẫu nhân sinh ấy thấp lè tè, không cao cả xinh đẹp như các mẫu khác. Ðó là mẫu người, mẫu đời bình thường.

Ngủ đi em, mộng bình thường.

Vâng, chúng tôi là những người tầm thường với những giấc mộng bình thường. Với những trách nhiệm, sức mạnh, sứ mệnh bình thường. Một người trẻ hăm hở dùng ngòi bút lấp biển vá trời mà đọc những dòng tâm sự yếu xìu thế này, chắc chán lắm !

Làm sao được, hở Thanh? Chúng tôi không muốn những tay làm chính trị (dù tay mơ hay lão luyện) nâng chúng tôi cao lên tận mây xanh rồi giao cho chúng tôi những trọng trách mà chính quí vị ấy, dù có súng có tiền có danh có thế trong tay cũng chưa làm nổi.

Nói thẳng ra, chúng tôi không ưa bất cứ những ai bắt chúng tôi phải có “đức vâng lời“. Bây giờ thì Thanh thấy thêm một cái bệnh của lớp đi trước: bệnh bướng bỉnh.

Ðấy, Thanh thấy không, đừng dại dột bước theo những bước lạng quạng của người đi trước như tôi.

Nếu muốn mạnh, Thanh hãy cầm súng. Muốn oai, hãy làm quan. Muốn giàu, làm business. Còn muốn sống cuộc đời hiu quạnh, muốn lắng nghe nhịp đập trái tim những người bình thường, vui buồn với cái vui buồn những người bình thường, mơ ước theo những mơ ước bình thường, thì hãy cầm bút. Thanh sẽ trở thành nhà thơ của đám đông bình thường chứ không phải là thi sĩ cung đình. Thanh sẽ là con chim sẻ rủ rỉ trên mái nhà chứ không phải là con hạc gỗ sơn phết loè loẹt nơi đình miếu. Tiếng hót đơn giản quê mùa của chú chim sẻ cũng có “sứ mệnh” của nó chứ, cần gì phải chen vào chốn miếu đình mới làm tròn ‘‘trách nhiệm“.

Tôi viết lá thư này với tất cả lòng thành. Có điều gì Thanh không vừa ý, đáng thất vọng, xin Thanh bỏ qua cho.

Thân ái.

Nguyễn Mộng Giác.
Tustin, tháng 12.1986.

( Văn Học, số 11 tháng 12 năm 1986 )

 

   Số lần đọc: 6599

Tác Phẩm

BÀI KỀ

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây