Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Nơi lưu giữ những tác phẩm của Nhà Văn Nguyễn Mộng Giác (1940-2012)

Dư Sinh


5

Khi quân đội Mỹ đã đổ bộ chiếm đóng ba làng Tuy An, Đại An, Vinh An để mở rộng vòng đai an ninh phi trường, thì chuồn chuồn dồn về chao liệng trên vùng trời Tân An nhiều hơn. Gần như lúc nào cũng có một chiếc thường trực trên đỉnh đầu. Không khí trong làng căng thẳng, ngột ngạt. Chị Mương chịu khó giặt dịa bằng nước giếng đục như nước cơm. Anh Cả anh hai không dám ra rẫy, Ngang cũng vậy. Cha bảo tôi cầm cái roi dài, chận không cho dê đi quá xa chừng hai trăm bước. Cả đàn lẩn quẩn gặm trơ mấy bụi lá. Hai ba ngày đầu, dê ăn tạm mấy thứ thảo mộc không mấy hợp. Về sau, vùng chu vi quanh chuồng hoàn toàn xơ xác, chồi non không kịp lú đã bị gặm nát. dê không đủ ăn, nên ốm o thấy rõ. Buổi tối mấy con dê con cứ giục mạnh đầu vào bầu sữa nhăn, rồi thất vọng, kêu be be, không ngủ được. Tôi chỉ tình trạng chuồng dê cho cha thấy. Cha thở dài không nói gì. riêng tôi, tôi không thể chịu nổi nữa. thấy mấy con dê con chân cứ run rẩy, bụng xếp ve, gặm hoài núm vú khô của con mẹ ốm, làm sao tôi cầm được lòng xót thương. Tôi ôm con dê con, vuốt cái đầu thơm mùi sữa pha lẫn nước tiểu, nói với nó:

– Chịu khó nghe con! Ráng ít bữa chuồn chuồn đi hết, ta lại dẫn con ra đầm, đem con đi tắm mát.

Nói vậy, nhưng chính Ngang cũng không thể chịu khó thêm nữa. Sau một đêm thao thức vì tiếng be be đánh thức từng cơn, tôi quyết định cho dê ào xuống vùng cây cỏ xanh tươi phía suối. Đàn dê chạy nhảy tung tăng. Mấy con dê cái có vẻ an nhiên tự tại. Mấy con dê con đưa mõm gậm thử mấy chồi non rồi lại nhả ra. Chỉ có mấy con dê đực là hung hăng, hớn hở biểu lộ cái vui tự do. Chúng kéo nhau chạy từ đầu chuồng đến cuối suối, leo lên dốc cxao nhảy chuyền trên gành đá. Sợ cha ở trện rẫy về sớm, mặt trời còn hơn con sào, tôi đã lùa dê về chuồng. Kiểm lại thấy mất hai con dê giống. Ngang chạy ra bờ suối, chạy ra gành đá vẫn không thấy chúng đâu. Mặt trời càng hạ thấp, nỗi lo sợ càng tăng. Buổi trưa hai con dê quỷ quái này chơi trò rượt bắt, đuổi nhau nhảy từ mõm đá này sang mõm đá khác. Không biết bây giờ chúng ở đâu? Anh Cả ở rẫy về trước, nghe tin thương hại em, hốt hoảng đi tìm. Anh hỏi:

– Hai con dê đó thường tới chỗ nào?

– Mấy ngày trước, nó thường ra bờ đầm. Con dê có đốm ở mắt lại thường ưa lên đỉnh đồi kêu be be rồi ngó lung.

Anh chạy xuống dưới đầm. Chiều tối hơn. Trước sân chuồn chuồn bay nhiều trong khi trên trời, con chuồn chuồn sắt vẫn đảo qua đảo lại. Ngang đang lo đóng cửa chuồng, nhốt riêng mấy con dê có chửa thì tiếng cánh quạt sần sật ngay trên nóc nhà. Máy bay bay thật thấp, dọc theo ven núi. Đàn dê hốt hoảng tông đầu vào song chuồng. dê con kêu be be. Có tiếng một tràng súng nổ chát chúa, thật gần…

Trời tối mịt, cha và anh Hai, mới khiêng được xác anh Cả về. Mẹ ôm ống chân của anh, khóc tỉ tê:

– Ôi con ơi là con ơi! Mấy ổng đã bảo đừng chạy, mà con còn chạy làm gì. Cả ơi, sao con nỡ bỏ cha mẹ anh em mà đi sớm vậy, Cả ơi!

Cha trầm ngâm, lấy dẻ nhúng nước lau mặt mũi cho anh, nhưng đạn đã làm rách nát cả mặt mày, làm thành một đám bầy nhầy, không thể nhận ra nét cũ. Chị Mương run run cầm cái đèn dầu soi gần cho cxha lau chùi, khóc thút thít. Hàng xóm nghe tin, đến chia buồn lao xao trong bóng tối.

– Tội quá chừng, mới hồi chiều nó còn hứa mai làm cỏ vườn giùm cho tôi.

– Hồi sáng, anh nói chắc mai anh đi xa, lâu mới về. Ai ngờ anh chào trước mà đi luôn.

– Hèn gì mấy ngày nay nó hơi buồn buồn. Nó qua chơi với thằng Thảng bên tôi cả ngày hôm qua.

– Tính nó thiệt thà, ít nói. Ai mượn làm cái gì là làm liền.

– Thôi mà thiếm, chẳng qua cũng tại số phận. Gì gì rồi cũng không qua được số.

Ngang sợ sệt đứng sâu trong bóng tối. Anh Cả nằm đó ư? Anh đâu còn cười cợt, đâu còn bơi một cách nhẹ nhàng thoải mái từ bên này qua bên kia sông, đâu còn háy mắt cười thầm khi cha kình cãi với mẹ. Anh Hai giúp cha tắm rửa cho anh Cả, thay quần áo, rồi phụ với cha cuốn anh Cả vào chiếc chiếu. Đang loay hoay cuốn lại, có người bàn:

– Nó chết bất đắc kỳ tử, phải làm dấu, không thì về sau ảnh hưởng không tốt cho anh em, bà con.

Cha ngập ngừng dừng tay. Mẹ thôi khóc, thút thít hỏi lại cách thức trừ tà. Cha và anh Hai lại phải tháo dây ra, để người hàng xóm lấy mực bôi cái trán may mắn còn nguyên. Như chưa cho là đủ, ông ta còn gạch chữ thập lên cổ và lên ngực anh Cả.

Lúc cha và anh Hai bó xong xác, Đành đã tụ tập đồng bào đến đông nghẹt trước cuốn chiếu. Anh đốt một nắm ngang, đến vái anh Cả vài cái. Anh Đành đến lí nhí với cha mẹ tôi rồi dắt tay anh Hai ra nói chuyện riêng ngoài cổng. Mẹ lo sợ nhìn theo.

Từ đó anh Hai bỏ công chuyện nhà theo sát bên anh Đành. Anh đem về nhà mấy trái lựu đạn khẩu súng có gắp đạn uốn cong. Mẹ vội vã thuật lại với . Trong bữa cơm, cha nói:

– Thằng Cả chết, bây giờ chỉ còn có mầy là cột trụ gia đình. Hãy nghĩ đến điều đó.

Anh Hai không trả lời gì. Mẹ nói:

– Mẹ thấy con đem súng đạn về nhà lạnh mình. Quí gì thứ đó mà ai cũng ham. Chết chóc, chém giết, thiêu đốt! Sao không lo làm rẫy giữ dê mà sống cho rồi.

Anh Hai và vội cho hết chén cơm, rồi bỏ ra ngoài. Cha im lặng nhìn mông lung ra bóng đêm. Mẹ quay mặt chùi vội nước mắt trong tối. Con dê con khát sữa kêu be be ngoài chuồng.

Tối hôm ấy, lúc trăng mọc phía bờ sông, có chiếc máy bay chuồn chuồn bay tuần qua làng. Đèn xanh đỏ chớp ở dưới bụng. Từ phía chuồng dê, có ai bắn một loạt đạn lên máy bay. Đó là nguyên do Tân An lại bị oanh tạc dữ dội như ba làng lân cận. Có người bảo chính anh Hai đã bắn loạt đạn đó. Tôi không biết có đúng không, vì trong cơn khói lửa mịt mù, cả nhà tôi đã chạy núp vào hóc đá nên an toàn, chỉ trừ anh Hai, bị cháy thuyi với đàn dê.

 

   Số lần đọc: 15426

Tác Phẩm

BÀI KỀ

Bài trước
Bài tiếp theo

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây